Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử HT Thích Ngộ Khải, Chứng minh BTS GHPGVN Thị Xã An Nhơn – Bình Định Viện Chủ Chùa Thiên An

24/04/202209:24(Xem: 1772)
Tiểu Sử HT Thích Ngộ Khải, Chứng minh BTS GHPGVN Thị Xã An Nhơn – Bình Định Viện Chủ Chùa Thiên An

ht thich ngo khai

T
IỂU SỬ
HÒA THƯỢNG THÍCH
NGỘ KHẢI

Chứng minh BTS GHPGVN Thị Xã An Nhơn – Bình Định

Viện Chủ Chùa Thiên An

 

 A. THÂN THẾ.

Hoà thượng họ Trần, huý Văn Chương, Pháp danh Thị Trình, tự Hạnh Chơn, hiệu Ngộ Khải. Hoà thượng sinh năm Bính Tuất (1946) trong một gia đình thâm tín Phật giáo tại thôn An Lợi, xã Phước Thắng, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Thân phụ là Cụ ông Trần Nhơn pháp danh Thị Thiện, thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Đẩu, pháp danh Thị Đâu. Hoà thượng là con thứ bảy trong một gia đình có 8 anh chị em. Gia đình Hòa thượng đều là Phật tử thuần thành tại Tổ đình Thiên Bình, xã Nhơn Phong, thị xã An Nhơn, tinh Bình Định.

 

B. THỜI KỲ XUẤT GIA HỌC ĐẠO.

Vốn có túc duyên với Phật pháp, từ nhỏ Hòa thượng thường theo cha mẹ về lễ bái, tụng kinh, tu học tại Tổ đình Thiên Bình. Sau một thời gian cảm mến Phật pháp, với tâm nguyện thoát tục mạnh mẽ, vào năm 13 tuổi (1959) Hòa thượng đã được song thân cho phép được xuất gia tu học với cố Hòa thượng Thích Tâm Đạt, bậc Cao Tăng đức độ, trú trì Tổ đình Thiên Bình.

Kể từ khi được Bổn Sư thế độ, Hòa thượng ngày đêm kinh kệ miệt mài, công phu chấp tác chuyên cần, sớm hôm canh tác ruộng đồng cùng đại chúng.

Năm 1968, Hòa thượng được Bổn Sư cho phép thọ giới Sa di tại Đại giới đàn Phước Huệ được tổ chức tại Tổ đình Long Khánh do Cố Hòa thượng Thích Phúc Hộ làm đàn đầu.

Sau một thời gian xuất gia tu học, Hoà thượng được Bổn Sư cho phép theo học Phật pháp tại Phật học Viện Nguyên Thiều và Tổ đình Long Khánh, tốt nghiệp Phật học viện và Tú Tài 2 vào năm 1971.

Năm 1973, Hòa thượng được thọ giới cụ túc tại Đại giới đàn Phước Huệ tổ chức tại Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang cũng do Cố Hòa thượng Thích Phúc Hộ làm đàn đầu.

 

C. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO:

 I. HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ:

Sau khi thọ giới, theo sự chỉ dạy của Hoà thượng Bổn Sư và sự tin tưởng của sư huynh là cố Hoà thượng Thích Liễu Không, Hoà thượng được bổ nhiệm làm trú trì chùa Chi Hội An Nhơn vào năm 1973.

Kể từ khi trụ trì chùa Chi Hội An Nhơn, trong vai trò cố vấn giáo hạnh Gia đình Phật tử Nhơn Hưng (nay là Gia đình Phật tử A-dục) Hoà thượng thường mở các lớp giáo lý dạy cho các đoàn sinh Gia đình Phật tử, làm giáo viên dạy Phật pháp và Anh Văn tại các trường Bồ-đề trong tỉnh.

Thực hiện mô hình kinh tế tự túc cho Phật giáo địa phương Hoà thượng thành lập nhà in Sen Hồng, chuyên về in ấn văn hoá phẩm, đặc biệt văn hoá phẩm Phật giáo.

Sau năm 1975, trước những khó khăn chung của đất nước, Hoà thượng vừa hướng dẫn tín đồ tu học tại chùa Chi Hội An Nhơn, tổ chức các đại lễ Phật Đản của Phật giáo An Nhơn, tự túc kinh tế nhà chùa qua việc cắt giấy, đóng vở, in và phát hành sớ điệp và phái Quy y.

Từ năm 1989 đến năm 1992, Hoà thượng đã liên tục mỗi năm tổ chức các khoá an cư kiết hạ tại chùa Chi Hội An Nhơn, cung thỉnh cố Hoà thượng Thích Liễu Không làm Thiền chủ, là đạo tràng tu học trang nghiêm, miên mật của Chư Tôn thiền đức Tăng tại An Nhơn và các vùng phụ cận. Nhiều Tăng Ni sinh gần xa về tham dự các lớp Phật học trong các đạo tràng này.

Từ năm 1992 trở đi, Hoà thượng tổ chức khoá tu Bát Quan Trai, mỗi tháng hai kỳ, giảng dạy giáo lý, thuyết giảng Phật pháp cho tín đồ Phật tử tại trú xứ chùa Chi Hội An Nhơn. Các hoạt động Phật sự duy trì và phát triển khởi sắc cho đến hôm nay.

Trong cương vị trú trì chùa Chi Hội An Nhơn, văn phòng Ban Đại Diện Phật giáo An Nhơn, Hoà thượng tham gia vào Ban Đại Diện trong nhiều cương vị khác nhau.

Từ 1997 đến 2012, ngoài vai trò UV. BTS GHPGVN Tỉnh Bình Định; suốt ba nhiệm kỳ, Hoà thượng là Chánh Đại Diện Phật giáo huyện An Nhơn. Với phạm hạnh nghiêm cẩn và tâm lượng bao dung, trong suốt hai nhiệm kỳ lãnh đạo Phật giáo huyện nhà, Hoà thượg đã nhiếp chúng chu toàn mọi Phật sự, tạo nên năng lượng hoà hợp và trang nghiêm của Phật giáo An Nhơn.

Năm 2000, Hòa thượng được cung thỉnh vào hàng tôn chứng tại Đại giới đàn Chánh Nhơn.

Năm 2009, hội đủ duyên lành, Hoà thượng sang Ấn Độ chiêm bái các thánh tích Phật giáo tại hai miền Nam và bắc Ấn Độ.

Năm 2011, Ngài được tấn phong giáo phẩm Hoà thượng.

Ngoài việc tham gia các hoạt động Phật sự, Hoà thượng còn là đại biểu Hội đồng nhân dân, UBMTTQVN và Hội Chữ Thập đỏ thị xã An Nhơn nhiều nhiệm kỳ.

 

 

II. PHẬT SỰ TẠI CÁC CHÙA

Với tinh thần phụng sự chánh pháp vì lợi ích chung, Hoà thượng luôn nhiệt huyết trong việc hỗ trợ các trú xứ đơn chiếc và chưa có trụ trì. Hoà thượng được các bậc Tôn túc và Ban Hộ Tự các chùa trong tỉnh thỉnh mời đảm đương các Phật sự thiết yếu.

Năm 1992 Ban Hộ Tự chùa Phú Thọ tại thành phố Quy Nhơn thỉnh Hoà thượng về chăm lo Phật sự. Đến năm 1995 Ban Hộ Tự đã cung thỉnh Hoà thượng kiêm nhiệm trụ trì và được các cấp Giáo hội chuẩn y. Trong thời gian hơn mười năm (1992-2003) chăm lo tại chùa Phú Thọ, Hoà thượng đã khai hoang phục hoá, trùng tung nhà Tổ, kiến thiết khuôn viên, sắm sửa pháp khí, tổ chức khoá tu Bát Quan Trai mỗi tháng hai kỳ, thành lập gia đình Phật tử, chu toàn mọi sinh hoạt tín ngưỡng của bổn tự và bổn đạo và đồng bào Phật tử.

Năm 2000 Ban Hộ Tự chùa Dương Sơn tại Huyện Tuy Phước cung thỉnh Hoà thượng về chăm lo Phật sự, hướng dẫn việc tu học của tín đồ. Đáp lời thỉnh cầu, Hoà thượng đã không ngại khó khăn mỗi tháng đều có mặt hướng dẫn việc tu học, ngay cả những khi mùa lũ tràn về. Hoà thượng đã đứng ra vận động và xây dựng ngôi Đại hùng Bảo điện của chùa thật trang nghiêm.

Năm 2003, Hoà thượng Thích Như Bửu, vì tuổi cao sức yếu và bệnh duyên, đã cung thỉnh Hoà thượng đảm nhận vai trò kiêm nhiệm trú trì chùa Bửu Tháp tại xã Nhơn Mỹ, huyện An Nhơn. Hoà thượng đã xây dựng bảo tháp và lo tang lễ của Hoà thượng Như Bửu thật trang nghiêm, kiến thiết khuôn viên, xây dựng tường rào, dắt dẫn tín đồ quy hướng tu học.

Năm 2004 Cố Hoà thượng Thích Đồng Chơn, trú trì chùa Bình An đã cung thỉnh Hoà thượng kiêm nhiệm Phật sự chùa Kim An tại xã Nhơn Khánh, Huyện An Nhơn. Hoà thượng đã tận tâm chăm lo, kiến thiết lại khuôn viên chùa, sửa sang khu hậu tổ và khách phòng, sắm sửa pháp khí và hướng dẫn tín đồ sinh hoạt.

Ngoài ra, Hoà thượng còn kiêm nhiệm chăm lo Phật sự tại các ngôi chùa khác trong một thời gian dài, như chùa Thiên Long, chùa Kim Hoà, v.v…

Với chiếc xe honda cũ kỹ, vừa chu toàn Phật sự tại chùa Chi Hội, vừa chăm lo Phật sự, hướng dẫn đạo tràng Phật tử cho hơn 10 ngôi chùa gần xa, quả là một hạnh nguyện, một sự cống hiến cho Phật pháp thật cao cả.

 

III. HOÁ ĐỘ TỨ CHÚNG  

Hoà thượng là bậc nghiêm cẩn cương trực, nhưng cũng rất tâm lý và bao dung. Ngài rất ít nói, chuyên lấy thân giáo để nhiếp hóa và uốn nắn đạo hạnh của đại chúng. Vì lý do đó, rất nhiều Tăng Ni và Phật tử tìm về chùa Chi Hội An Nhơn để xin xuất gia làm đệ tử, hoặc y chỉ, hoặc quy y.  Ngài đã độ hơn 15 vị đệ tử Tăng, Ni xuất gia và hướng dẫn tu học cho rất nhiều Tăng chúng tại bổn tự.

Hoà thượng rất tâm huyết về sự nghiệp giáo dục Phật giáo. Ngài đã tạo mọi nhân duyên tốt nhất cho các đệ tử của mình đi tầm học nhiều nơi và đã có 6 vị tốt nghiệp học vị Tiến Sĩ từ các nước Ấn Độ và Trung Quốc. Hầu hết đệ tử của Ngài đều đang trụ trì tại nhiều trú xứ trong nước và tham gia nhiều Phật sự các cấp Giáo hội, đặc biệt là lĩnh vực Giáo dục Phật giáo.

Đối với quần chúng Phật tử, Hòa thượng đã trao truyền Tam quy Ngũ giới, và là tôn chứng Thập thiện giới và Bồ-tát giới tại gia cho rất nhiều Phật tử khắp nơi.

 

IV. KIẾN THIẾT TRÙNG TU:

Kể từ khi đảm nhận trú trì chùa Chi Hội An Nhơn, Hoà thượng luôn tâm huyết việc kiến thiết và trang nghiêm trú xứ. Ngài cùng gia đình mua hai căn nhà phía sau chùa, mở rộng khuôn viên, xây dựng khu nhà khách và Tăng phòng phục vụ cho việc an cư.

Năm 2004 đến 2006, Hoà thượng xây dựng khu Tổ đường và Tăng phòng khang trang.

Năm 2005, Hoà thượng vận động đúc Đại hồng chung chùa Chi Hội nặng 700 kg.

Năm 2006 Hoà thượng làm lễ đặt đá xây dựng công trình giảng đường và Chánh điện đến năm 2010 thì hoàn thành.

Năm 2011, Hoà thượng kiến nghị đổi tên chùa Chi Hội An Nhơn thành chùa Thiên An và đã được Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Bình Định và chính quyền tỉnh chuẩn thuận thông qua.

Từ năm 2017 đến năm 2021, suốt năm năm mùa An Cư, trong vai trò là thiền chủ đạo tràng an cư chùa Thiên An, tuy thân bệnh, Hoà thượng vẫn dự quá đường đều đặn, không vắng mặt một ngày nào.

 

V. VIÊN TỊCH:

Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 03 tháng 3 năm 2022 (nhằm mùng 01 tháng 02 năm Nhâm Dần) tại chùa Thiên An, phường Bình Định, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, trụ thế77 năm, hạ lạp49 năm.

 

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế, Thiên Bình Pháp Phái, Thiên An Đường Thượng, Huý thượng Thị hạ Trình, tự Hạnh Chơn, hiệu Ngộ Khải Hòa Thượng Giác Linh Liên Đài tọa hạ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2010(Xem: 7047)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6647)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6944)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 1004)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33978)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4753)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4686)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4648)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4598)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4933)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567