Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trăm năm còn lại tấm lòng (Thành kính tưởng niệm Hoà thượng Thích Đỗng Tuyên (1945 - 2022)

02/04/202219:03(Xem: 2456)
Trăm năm còn lại tấm lòng (Thành kính tưởng niệm Hoà thượng Thích Đỗng Tuyên (1945 - 2022)

sinh hoat-on dong tuyen (4)
Trăm năm còn lại tấm lòng

Thành kính tưởng niệm Hoà thượng Thích Đỗng Tuyên
tự Hạnh Hưng, tân viên tịch
1945 - 2022



Thưa Sư huynh,

Đã sáu năm qua, huynh đệ chúng ta chưa từng tương hội. Tuy gần mà xa. Tuy xa mà gần. Bởi vì Huynh quá bận rộn trên con đường hành hoạt, hoằng Pháp lợi sanh. Còn Đệ vì bệnh duyên chi phối, do chứng xuất huyết não gây ra. Hằng ngày Đệ phải hành thiền, luyện tập yoga, tập đọc và tập viết, vốn liếng ngoại ngữ hoàn toàn không biết. Trí não lúc nhớ khi quên, nhưng nhờ tinh thần vẫn còn sáng suốt, nên sức khoẻ cũng ổn định dần dần.
Bây giờ Đệ có thể hồi tưởng phần nào trong ký ức, cố gắng viết đôi dòng cảm niệm, tiễn biệt Huynh về cõi vô tung bất diệt. Thể hiện Đạo tình Linh sơn cốt nhục, một thời Huynh đệ sống và làm việc với nhau.

Thưa Sư huynh,
Mới cách đây mấy hôm, vào buổi sáng tinh sương, tiết trời còn se lạnh của ngày Rằm tháng hai năm Nhâm Dần (2022). Trên những dãy núi nhấp nhô trùng điệp của miền Bắc California, Hoa Kỳ. Nơi Tu viện Kim Sơn ẩn mình trong rừng cây xanh ngát, do Hoà thượng Thích Tịnh Từ mở núi tạo nên. Hoà thượng là Viện trưởng, đứng ra tổ chức đại lễ Tưởng niệm 50 ngày Sư ông Làng Mai, Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch. Và cũng là ngày đức Phật Thích ca Mâu ni thị nhập Niết bàn cách đây 2.566 năm về trước.

Trong buổi lễ này có hơn 160 Tăng ni tham dự. Huynh tuyên đọc tiểu sử của Thiền sư, trong niềm xúc cảm nghẹn ngào, lệ nhỏ rưng rưng. Vừa dứt phần nghi thức tưởng niệm, Đệ đến bên Huynh để bái chào thưa hỏi và đưa cho Huynh xem mấy tấm ảnh của quý Ôn lãnh đạo Giáo hội Phật giáo ngày xưa. Huynh cầm xem rồi đưa lên đầu với niềm tôn kính trân trọng.

Đệ nhớ lại vào những ngày đầu thập niên 1970, chúng ta là học Tăng cùng lớp, cùng sống chung dưới mái trường Phật học, Tổ đình Giác Nguyên, Quận tư, Sài Gòn. Do bốn vị Tôn đức: HT Hành Trụ, HT Thái An, HT Khánh Phước và HT Thiện Tường đồng kiến lập từ năm 1945- 47. Đó là một trong những ngôi trường Phật hoc của cả nước, góp phần đào tạo Tăng tài cho Giáo hội.

Huynh và đoàn Tăng sinh khoảng 40 vị, từ trường Phật học Hải Đức, Nha Trang, chuyển vào Sài Gòn để chuẩn bị lên đại học. Đệ từ trường Phật học Quảng Đức trực thuộc Việt Nam Quốc Tự, cũng được nhập chúng đồng tu. Huynh làm chúng trưởng, giới hạnh trang nghiêm, được huynh đệ đồng môn kính quý. Đệ làm ban quản lý, và nhờ đọc nhanh và rõ, nên được cử trùng tuyên giới bổn Tỳ khưu và Bồ tát giới vào mỗi kỳ Bố tát của chùa.
Năm 1973, hoàn cảnh đất nước chiến tranh ngày càng leo thang dữ dội, kinh tế kiệt quệ, cuộc sống khó khăn. Hằng ngày chúng Tăng ăn cơm gạo hẩm, độn với rau, măng, và cùi cải bắp sú xin từ chợ Cầu Ông Lãnh, Cầu Muối mang về. Do đó HT viện chủ cùng ban giám học đành quyết định giải thể trường Phật học này.

Lúc ấy, Huynh cùng một số Tăng sinh được chuyển về Tu viện Quảng Hương Già Lam, quận Gò Vấp, Sài Gòn, do Ôn Thích Trí Thủ sáng lập. Ngài cũng là Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN. Vì không đủ chỗ, nên một số Tăng sinh khác phải ra ngoài thuê nhà trọ để tiếp tục học cho xong đại học. Còn Đệ được HT Thiện Tường giữ lại giúp việc chùa. Sau 1975, Đệ đã phải hứng chịu nhiều phong ba bão táp, đi lại rất khó khăn.

Đến cuối năm 2001, Đệ mới được ra nước ngoài, đi Ấn Độ chiêm bái Phật tích, gặp lại Huynh tại Thủ đô Tân Đề Li. Chúng ta nghe tin HT Thích Đức Nhuận, bậc ân sư khả kính vừa viên tịch tại chùa Giác Minh, Sài Gòn, sau những ngày Ngài nằm điều trị tại bệnh viện Thống Nhất. Lúc ấy Đệ ở Bồ đề Đạo tràng vào Đại Tháp Giác Ngộ để dâng lời cầu nguyện Ân sư cao đăng Phật quốc. Nửa năm sau đó, Đệ đến được Hoa Kỳ, và Huynh cũng qua sau, chúng ta lại gặp nhau trên miền đất hứa này với nhân duyên kỳ lạ.

Sau năm 1975, Huynh đệ thỉnh thoảng vẫn lui tới thăm nhau. Nhất là vào những năm cuối thập niên 70, Đại lão HT Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN, cũng là Viện chủ Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ngài chỉ đạo mỗi ban Đại diện Phật giáo quận huyện thành phố Sài Gòn, cử một hoặc hai vị giáo phẩm, vân tập về Tu viện tham dự ba khoá an cư kiết hạ,mỗi khoá trong ba tháng hè. Ý chỉ này nhằm mục đích: Tấn tu Đạo nghiệp, Trang nghiêm Giáo hội. Đệ cũng được tham dự khoá tu này. Do vậy hằng ngày sinh hoạt, Huynh đệ cũng thường gặp nhau.

Năm 1981, vận mệnh Phật giáo thay đổi theo cuộc đổi đời 30 tháng 4, 1975. Một số lãnh đạo Phật giáo Việt nam Thống nhất bị bắt bớ lưu đầy trong các trại tù "cải tạo", hoặc bị quản thúc "tại gia", vì tội bất tuân dân sự, không theo chế độ "cách mạng" hiện hành.

Huynh đệ chúng ta cùng các thầy Như Minh, Nguyên Lý... tự chia nhau đi thăm nuôi quý Ngài khắp mọi nơi. Từ miền Nam, ngã ba Trung Lương vào Ấp Bắc, thăm thầy Liễu Minh, đến trại tù Xuân Lộc (các thầy Tuệ Sỹ, Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) và Không Tánh). Có lần chúng mình cùng Hoà thượng Huệ Hưng đi thăm các thầy này cũng tại nơi đây. Rồi trại tù Hàm Tân (HT Đức Nhuận), Phú Yên (Thầy Tuệ Sỹ bị chuyển trại), Quảng Ngãi (HT Huyền Quang), ra đất Bắc, Vũ Đoài, Thái Bình (Ngài Quảng Độ). Có những lúc trèo đèo qua núi, có những khi lội suối băng rừng. Lòng vẫn thênh thang như trời xanh mây trắng. Thầy trò, huynh đệ gặp nhau tủi tủi mừng mừng.

Một hôm, Huynh cho biết dự tính đi du học tại Ấn Độ để nghiên cứu chuyên ngành Luật Tạng của hai trường phái Nam Bắc Tông Phật giáo. Sau này về nước, Huynh muốn thực hiện đường hướng Giáo dục Phật giáo cho Tăng Ni và Phật tử quê nhà được hoàn hảo hơn.

Trước khi Huynh đi, Đệ có đến thăm Huynh. Đệ hỏi: "Sư huynh nghĩ sao, Huynh nay tuổi đã già rồi, lẽ ra "Lão giả an chi" mới phải. Huynh từng làm thầy dạy các lớp học trò của mình. Bây giờ thầy trò cùng học chung nhau như vậy, liệu Huynh có mặc cảm gì không?

Huynh cười khẽ đáp: "Giáo dục là ngành tôi yêu thích nhất. Tôi luôn cố gắng nghiên cứu Phật pháp và học hỏi với tất cả mọi tầng lớp trong xã hội, để ứng dụng vào đời sống tâm linh cho chính mình, cho Tăng đoàn và cộng đồng Phật tử tại gia. Dù một mai tôi có chết đi, cũng nguyện trở lại cõi nầy làm thân Tu sĩ Phật giáo, chuyên ngành giáo dục mà thôi".

Đệ rất kính phục Huynh qua lời khẳng khái, quyết tâm này. Rồi Đệ nói đùa với Huynh: "Đại mộng dữ ha. Nhưng đường lối giáo dục của Huynh vạch ra như thế nào cho phù hợp khế cơ, khế lý, với hiện tình Phật giáo buộc phải theo xu thế quyền lực chánh trị? Liệu họ có sử dụng Huynh không?
Huynh đáp: "Đạo Nho có câu, vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người. Đó là đường lối giáo dục dài hạn, kinh qua nhiều thế hệ. Tôi mừng ngày nay, giới Tăng ni trẻ có đủ điều kiện học hành tử tế, được du học khắp nơi trên thế giới. Họ có đủ năng lực kế thừa mạng mạch Phật pháp. Tuy nhiên, về mặt tổ chức nếu không sử dụng đúng mức nguồn nhân lực này, sẽ bị bỏ quên, lãng phí vô ích. Từ đó họ mặc cảm bị bỏ rơi, rời xa tổ chức, sống buông lung, khó giữ tròn Đạo lực như quý Ôn, các bậc Tôn đức, Trưởng lão ngày xưa đã gìn giữ và phát huy. Đó là điều khiến tôi trăn trở." Sư huynh dâng niềm cảm xúc.

Đệ tiếp lời: "Bởi vậy theo Đệ, quan niệm nhà Nho mà Huynh vừa nêu, nó không được định hướng rõ ràng cho lắm. Vì lợi ích mười năm trồng cây, nhưng phải là trồng giống cây lành trái ngọt; Vì lợi ích trăm năm trồng người, phải là người có Đạo đức Nhân văn. Như vậy mới đúng với tinh thần Giáo dục của Phật giáo phải không Huynh?"

Huynh gật đầu đáp: " Đúng thế, chính vì vậy, Đức Phật dạy chúng ta "Duy tuệ thị nghiệp". Nói cách khác, Giới - Định - Tuệ là phương châm tu dưỡng, là nền tảng căn bản, giúp người con Phật trở thành hành giả hơn là học giả, từng bước vững chãi đi đúng lộ trình Giác ngộ và Giải thoát. Do vậy, Phật pháp có hưng thạnh hoặc suy tàn, đều do giới lãnh đạo, tổ chức Giáo hội có tôn trọng Bản thể Tăng già hay không? Có thực hiện tinh thần Lục hoà Đoàn kết và tu tập Giới Định Tuệ hay không ?"

Đệ nói: "Hay lắm, Đệ hoàn toàn tán đồng lời Chân thật đầy tâm huyết của Huynh. Cầu chúc Huynh sớm hoàn thành Đại nguyện."


Thưa Sư huynh,

Hạnh nguyện của Huynh cao đẹp quá, đời sống của Huynh thật dung dị, bình thường. Huynh trải tấm lòng đi khắp bốn phương, và trên mọi nẽo đường nhân gian sanh tử, phổ độ chúng sanh. Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, chan sớt tình người, mở rộng tình thương, vun bồi tình Đạo. Là tấm gương soi sáng cho hàng hậu học noi theo.

Rồi một chiều Xuân nắng ấm, lá vàng lát đát rơi theo cánh gió nhẹ bay. Huynh cùng quý Phật tử làm công việc thiện nguyện, giúp đỡ những người neo đơn bất hạnh, sống lang thang, không cửa không nhà. Huynh trở về chùa Đại Bảo Trang Nghiêm, tẩy sạch bụi đường bám thân như huyễn. Rồi bước ra nơi phương trượng, Huynh nằm im, tĩnh lặng như nhiên, thu thần thị tịch, để lại cho đời bao nỗi tiếc thương vô hạn.

Thưa Sư huynh,
Thêm một lần hội ngộ, lại là một chuyến chia ly. Huynh ra đi, nhưng chưa tròn hạnh nguyện lúc ra đi. Xin trở lại để hoàn thành đại nguyện.
Trăm năm còn lại tấm lòng. Thế là đủ rồi.

Thành kính bái biệt Sư huynh.
California. 22 tháng 3, 2022

Pháp đệ Thích Giác Nguyên cẩn bút.


sinh hoat-on dong tuyen (10)sinh hoat-on dong tuyen (12)

sinh hoat-on dong tuyen (11)
Tác giả, Thích Giác Nguyên (bìa phải) dự lễ tưởng niệm 
Ôn Đỗng Tuyên tại Chùa Đại Bảo Trang Nghiêm



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2011(Xem: 4379)
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
08/08/2011(Xem: 3881)
Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Phước Huệ (1875 - 1963) - chùa Hải Đức
08/08/2011(Xem: 4400)
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
07/08/2011(Xem: 11505)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
04/08/2011(Xem: 4374)
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
30/07/2011(Xem: 5916)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
28/07/2011(Xem: 4869)
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành: -Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi. -Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật. -Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo. -Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông. -Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang. Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm -Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương. -Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
15/07/2011(Xem: 5709)
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
24/06/2011(Xem: 4841)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
24/06/2011(Xem: 4861)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567