Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành Kính Tưởng Niệm Giác Linh Sư Bà Thích Nữ Như Tuấn

20/12/202119:37(Xem: 3819)
Thành Kính Tưởng Niệm Giác Linh Sư Bà Thích Nữ Như Tuấn


Su ba Nhu Tuan-1

THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM

GIÁC LINH SƯ BÀ THÍCH NỮ THƯỢNG NHƯ HẠ TUẤN

 

 

 

Đệ tử chúng đẳng

Tùy thuận tu tập

Phổ Hiền Bồ Tát,

Thập chủng đại nguyện

  

Nhất giả lễ kính Chư Phật

Nhị giả xưng tán Như Lai

Tam Giả Quảng tu cúng dường

Tứ giả sám hối nghiệp chướng

Ngũ gỉa tùy hỉ công đức

Lục giả thỉnh chuyển pháp luân

Thất giả thỉnh Phật trụ thế

Bát giả thường tùy Phật học

Cửu giả hằng thuận chúng sanh

Thập giả phổ giai hồi hướng

 

***

  

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Giác Linh Sư Bà

 

Hôm nay thứ tư, ngày 15.12. 2021, con ngồi đây trong cái giá lạnh của mùa đông cũng như tâm hồn con đang giá buốt, mây mù ảm đạm, hình ảnh nhập kim quan Sư Bà khiến tim con như se buốt, ngừng đập...con thấy nhục thân Sư Bà được đưa lên cao, rồi bay bổng nhập vào thể chân như. Tất cả bầu trời như rung chuyển và rồi tia sáng chớp lành hiện ra, các vị Bồ Tát cùng Quán Âm Thế Chí theo cùng vô số Bồ Tát theo cùng đồng thanh niệm Phật, vui mừng rước Sư Bà về Cực Lạc, tiếng lá cây cùng lúc vi vu xao động hòa lên khúc âm thanh vi diệu lạ thường, niệm Phật, Pháp, Tăng, cùng với loài chim đủ màu kỳ diệu Hạc trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá Lợi, Ca lăng tầng già, cộng mạng đồng hót lên những âm thanh cao vút: ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chánh đạo, trong khoảnh khắc ấy đã cuốn hút con vào thế giới Cực Lạc diệu kỳ, cùng đồng thanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, bảy vầng mây xuất hiện kỳ ảo, như đằng giá đón Sư Bà. Con xúc động cúi đầu đảnh lễ...

 

Những kỷ niệm với Sư Bà mà con đã có phước duyên gặp gỡ, lại hiện về trong con, lần đầu gặp Sư Bà trên chùa Phật Huệ. Ôi sao mà hảo tướng! một sự từ bi thoát ra từ tâm như ánh hào quang bao phủ, con tới cúi đầu xá Sư Bà niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, Sư bà mỉm cười hiền hậu, thanh thoát, con ngồi bên Sư Bà, Sư Bà không nói gì, chỉ cầm tay và nhìn con trong im lặng, và hai lần sau cũng vậy, ấm áp, dịu dàng như bà mẹ hiền thương yêu con trẻ.

Có một lần nhân mùa Phật Đản, chùa tổ chức ở một hội trường lớn (Eisporthalle) trên Frankfurt, trời mưa tầm tã, con giận một vị (con xin phép không nói tên ra đây, vì vị ấy đã qua đời) con đi tìm để nói lên sự sai trái của vị ấy. Sư Bà thấy con vẫy lại, bảo con lại ngồi gần bên Sư Bà, con vâng lời tới, trong tư thế nửa ngồi, nửa quỳ bên Sư Bà, Sư Bà nhẹ nhàng vuốt tóc con, lại cầm tay con trong tay Sư Bà, đưa cho con ly nước, rồi nhìn con nhẹ nhàng bảo: “ Con uống nước với Thầy, Thầy uống bên này, con uống  bên này”. Sư Bà chỉ vào cái ly, con không dám uống vì nghĩ làm vậy là vô lễ, rồi đến lần thứ hai, Sư Bà nhắc lại, sự dịu dàng và ánh mắt từ hòa của Sư Bà như một mãnh lực, con đã uống. Sư Bà cười hiền, thanh thoát, con ngồi với Sư Bà cả tiếng đồng hồ, đến lúc đứng dậy thì vạt áo tràng và ống quần con đã ướt vì nước mưa dột chảy đầy mặt đất. Cơn giận dữ trong con đã tiêu tan từ lúc nào không biết, trong con tất cả đều từ hòa như ngọn gió mát Thanh lương, màu nhiệm.

Lần chót con gặp Sư Bà khi dự tang lễ thầy Từ Trí, lúc đó dường như Sư Bà đã yếu, con đến ngồi bên Sư Bà, Sư Bà vẫn chỉ cầm tay con trong tay Sư Bà không nói, con vẫn cảm nhận được tình thương Sư Bà cho con như tình thương của mẹ Quan Âm, nhưng cảm thấy man mác một nỗi buồn và cảm nhận được, tất cả rồi cũng sẽ phải dời xa.

 

Sư Bà kính thương, giờ đây con mới biết, đó là hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền khi con thấy ngôi chùa Sư Bà sáng lập ở Pháp lấy tên Ngài “Pagode Phổ Hiền”, Ngài có tâm đại từ, đại bi là đem con mắt và trái tim để đi vào cuộc sống mà Sư Bà cả đời hành nguyện, pháp thân Sư Bà đã thể hiện như bài pháp vô ngôn dạy cho hàng đệ tử chúng con:

 

“Phổ Hiền hạnh nguyện thật thâm uyên

Nguyện đem mắt thương nhìn nhân thế

Sống mãi cho người với trái tim

Tim là hơi thở, là nguồn sống

Mắt đẹp trao nhau nụ cười hiền

Thế giới bình yên, tâm bình yên

Đạo màu vi diệu bởi nhân duyên

Chuyển luân xe Pháp luôn quay chuyển

Độ tận chúng sanh gặp Đạo Thuyền”

 

Kính lạy Giác Linh Sư Bà,

 

Con nghe đâu đây vang vọng kệ bốn núi  của đời Vua Trần Thái Tông, một vị vua khai sáng triều đại nhà Trần, cũng là một thiền sư có công thiết lập nên tảng vững chắc cho Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử:

 

“Bốn núi cheo leo vạn  khóm tùng

Ngộ xong chẳng có, muôn vật không

Mừng được ba chân lừa có sẵn

Cưỡi lên thúc mạnh vượt cao phong”

 

Nguyên là tứ đại vốn không, ngũ ấm chẳng có. Do không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự chân không, không hiện, không vọng, vọng sanh các sắc. Đã trái không sanh không hóa, mải làm có hóa có sanh. Không sanh hóa thì không hóa sanh, có hóa có sanh nên có sanh có hóa. Hoặc sanh Thánh Hiền ngu trí, hoặc hóa vẩy cánh lông sừng. Luôn luôn chìm đắm nơi bên mê, mãi mãi trôi lăn trong biển khổ. Mờ mờ mịt mịt nào biết nào hay, rối rắm lăng xăng chẳng tỉnh, chẳng ngộ. Trọn là buông tâm chạy đi, đều không năm mũi kéo về, khiến đến qua lại sáu đường, xuống lên bốn núi: núi sanh, núi già, núi bệnh, núi chết! Thể hiện qua bốn mùa, Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Cuộc đời là thế, con người sanh ra không ai tránh khỏi sanh, già, bệnh, chết nào ai tránh khỏi, con hiểu và chấp nhận. Chỉ một lòng nguyện cho con đời đời kiếp kiếp gặp được Phật Pháp

 

Quyết lòng lắng gạn sạch trong

Cho nước trong trẻo ngọt đong mát lành

Nhẹ nhàng mềm mại tâm thanh

Yên vui hòa nhã khổ thành an vui

 

  

Sư Bà kính thương,

Sư Bà ra đi giữa mùa đông, khi khắp nơi trên thế giới dịch Corona làn thứ năm lại xuất hiện với biến thể Omicron đe dọa con người, lây lan mạnh nhanh hơn gấp mười lần biến thể Delta, khổ đau vẫn lan tràn do lòng người không thuận, do hận thù, ganh ghét, đố kỵ mãi đào sâu... Theo gương Đức Phổ Hiền trên con đường tu tập con thành kính với trái tim và con mắt thương nhìn thế gian, ngưỡng cầu Mười Phương Chư Phật cho chúng con, tất cả đều thâm nhập hạnh Phổ Hiền đồng trì tụng:

 

 

Phổ Hiền hạnh nguyện khắp đầy,

Con nay khẩn thiết vui vầy nguyện theo

Một là, kỉnh Phật trong veo,

Giàu nghèo phủi sạch, nạn eo không sờn

Hai là khen ngợi Phật ơn,

Có không, còn mất thế nhơn chẳng bì

Ba là, rộng cúng tứ vi

Bông rau, quả vị, hương nghi cúng thờ,

Bốn là sám tội lửng lơ,

Tham, sân, si, ái, hững hờ tạo ra,

Năm là vui thuận đẹp hòa

Người lành, kẻ dữ chúng ta rộng vì,

Sáu là, nguyện Phật thương bi,

Xây vần chánh pháp kịp thì độ sanh,

Bảy là nguyện Phật niệm lành,

Cứu dân độ thế hóa thành Lạc bang,

Tám là, học Phật lời vàng,

Sửa mình độ chúng thuận an tánh lành,

Chín là, tùy thích nhơn sanh,

Vui lòng, đẹp cảnh, lợi danh sá gì,

Mười là nguyện khắp chẳng ly,

Đài vàng rực rỡ phương phi dân lành,

Trọn rồi Mười nguyện độ sanh

Phật Đà bổn nguyện báo thành độ con

 

Kính đảnh lễ Giác Linh Sư Bà,

 

Dọc theo con đường gần nhà, hai hàng cây trơ trụi lá, cảnh vật yên tĩnh, con bước đi giữa bầu trời ảm đạm, nhưng con vẫn hít thở được không khí trong lành của thiên nhiên. Con chợt nhận ra rằng, mùa đông vẫn có cái đẹp của nó, trong những thân cây trơ trụi kia đã ẩn hiện những nụ đơm mầm cho mùa Xuân sắp tới, sự sống được tái sinh, chiếu theo luật tuần hoàn của vũ trụ, tương tác, tương hợp với nhau như trong kinh Phật dạy, con khe khẽ ngâm bài thơ của thiền sư Mãn Giác:

 

“Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa khai

Việc đời qua trước mắt

Trên đầu già đến rồi

Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai”

 

Hình ảnh Sư Bà còn mãi trong chúng con, với ngôi chùa Phổ Hiền đã nói lên hạnh nguyện của Sư Bà là ấn tâm nhắc nhở cho chúng con, miên mật tu học, hành trì hạnh Ngài, để được  nhẹ nhàng, thanh thoát.

 Chúng con nguyện đời đời kiếp tu học hạnh Phổ Hiền với con mắt nhìn sâu, với con tim biết thổn thức để buổi sáng dâng niềm vui, buổi chiều cứu người bớt khổ

Ngưỡng mong Giác Linh Sư Bà Cao Đăng Phật Quốc, sớm hội nhập Ta Bà để chuyển pháp luân giáo hóa cho chúng con thoát qua biển khổ luân hồi

Kính bái

Đệ tử

Diệu Danh

20/12/2021

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2010(Xem: 8479)
Xin cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Tác giả mang ơn sâu đối với Thiền Sư Thích Thanh Từ và Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát vì các công trình nghiên cứu và dịch thuật của hai thầy mà tác phẩm này đã dựa vào để tham khảo; và đối với bổn sư tác giả là Thiền Sư Thích Tịch Chiếu. Tác phẩm này được đặc biệt dâng tặng tới các thế hệ trẻ, và phổ quát dâng tặng cho tất cả chúng sinh.
16/12/2010(Xem: 5634)
Lời Phát Biểu của HT Huyền Quang tại Tang Lễ Ôn Đôn Hậu ngày 3-5-1992
10/12/2010(Xem: 9343)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
04/12/2010(Xem: 6001)
Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ, để ra đi tìm phương giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Lối 1332 năm sau Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi Yên Tử để xin xuất gia, mong trở thành sơn tăng sống cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua cha ép buộc nên phải trở về để kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc lòng mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị Đông Cung Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã thể hiện được con người siêu việt khác thường.
25/11/2010(Xem: 26682)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
24/11/2010(Xem: 11036)
Tiểu sử nhà văn Quách Tấn
15/11/2010(Xem: 8047)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 7992)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]