Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chấp Đối Dâng Đảnh, Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ. Đức Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) | quangduc.com

22/10/202104:53(Xem: 4602)
Chấp Đối Dâng Đảnh, Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ. Đức Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) | quangduc.com
ht pho tue (6)


Chấp Đối Dâng Đảnh..!

       Cung Kính Bái Bạch Giác Linh Đức Tổ- Viên Minh Tịnh Xứ.
       Đệ Tử Chúng Con, Tk: Minh Thế vọng Bái Giác Linh Đức Trưởng Lão Đệ Tam Pháp Chủ: Cung duy Vọng đối dâng đảnh:
         Chữ Hán:
                  “普 願 群 迷, 開 心 佛 學, 供 維 桅 第 三 法 主, 祖 祖 將 傳,  戒 律 行 密 印 指 花 藏 松 林.
                    慧 覺 恩 師, 圓 明 繼 位, 稱 尊桅 壇 主 和 尚, 處處 清 歸, 脈 法 禪 家 敕 行 清 貧 農 增.”

     
 Âm:

       “Phổ Nguyện Quần Mê, Khai Tâm Phật Học,Cung Duy Ngôi Đệ Tam Pháp Chủ, Tổ Tổ Tương Truyền, Giới Luật Hạnh Mật Ấn Chỉ Hoa Tạng Tùng Lâm.
       Tuệ Giác Ân Sư, Viên Minh Kế Vị, Xưng Tôn Ngôi Đàn Chủ Hoà Thượng, Xứ Xứ Thanh Quy, Mạch Pháp Thiền Gia Sắc Hạnh Thanh Bần Nông Tăng….”
         
Dịch:

         “Phổ Nguyện Muôn Loài, Phật Học Rạng Ngời Sáng Chói Khắp Nơi, Đại Tăng Cung Duy Lên Ngôi Pháp Chủ Đức Đệ Tam, Tổ Tổ Truyền thừa,  Ngài Luôn Trì Giới Luật, Để Ấn Pháp Hoa Tạng Bửa Khắp Các Chốn Thiền Môn.
          Tuệ Giác Bậc Thầy, Tiếp Nối Thừa Hành Kế Vị Trú Trì, Ngài Diễn Thông Trì Luật Lên Ngôi Đàn Chủ Hoà Thượng, Nơi Nơi Quay Về, Ngài Học Từ Pháp Mạch, Trong Thanh Thiết Chân Chất Một Vị Lão Tăng Nông Thiền….”
       
Phúc Duyên Cung Đối:

        Hàng hậu học chúng con, Tk Thích Minh Thế, được nhân duyên 10 năm liên tiếp hầu cận học tập mỗi khi Xuân về, chúng con lắng nghe pháp âm của Đức Tổ Sư Đệ Tam Pháp Chủ, trao cho chúng con, những lúc hạnh phúc nhất chính là bình an bên Đức Tổ Sư nhiều nhất.
       
Chúng con nhớ Đức Tổ có dạy rằng:

      "Suốt đời Thầy chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh, không mong cầu danh lợi. Thầy tự thấy mình chưa có công đức gì nhiều đối với Giáo hội...Lẽ ra, ngôi vị Pháp chủ chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có đầy đủ phúc đức, trí tuệ nắm giữ...Chùa to cảnh lớn dù sao cũng chỉ là phương tiện, nên không quan trọng trong việc quyết định thành tựu của người tu..."
       
Rồi Đức Tổ bảo tiếp:

        "Tuổi thọ không phải là thước đo giá trị của đời người. Vấn đề là sống để thực hiện sứ mệnh gì, mang lại lợi ích gì cho Đời, cho Đạo. Ngài Trần Nhân Tông chỉ ở đời có 51 năm, ngài Pháp Loa có 47 năm mà sự nghiệp thì bất khả tư nghì."
       
Chúng con bạch:

        “Bạch Đức Tổ, Một đời Huân Tu nên suy ngẫm điều gì..? “
         
Đức Tổ đáp:

         "Tu là gì?  Con biết không Minh Thế, Tu là sửa chữa những tai hại, sai lầm cho mình và cho người..Tôi cũng luôn dạy các đệ tử không được lạm dụng một bát gạo, một đồng tiền của tín thí thập phương, mà phải tự mình vừa cày cấy làm ăn, vừa truyền bá giáo lý đạo Phật đem lại lợi lạc cho đời.."
         
Kế đến Đức Tổ dạy cho pháp lục hoà:

        "Đạo nghĩa Lục hòa vốn là điều căn bản của Phật giáo. Thân hòa cùng ở; miệng hòa không cãi nhau; ý hòa cùng vui vẻ; giới hòa cùng tu; kiến hòa cùng giải - thấy biết kiến thức thì chia sẻ cho nhau hiểu; lợi hòa cùng chia - có của cải, lợi ích thì chia cân nhau không ai tranh tham phần hơn cho mình...Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy."
         
Và rồi, Đức Tổ dạy cho pháp học về cách nhìn tuổi thọ, Đức Tổ chỉ bảo vào bình hoa và vấn thị:

         "Muốn sống lâu trước hết phải sạch sẽ từ thân đến tâm... Về tinh thần, cần tu tâm dưỡng tính, tiết chế mọi ham muốn dục vọng, sống trong tinh thần lục hòa thì sẽ tăng được tuổi thọ. ..Nhưng dù sao, cũng không thể loại trừ được vô thường của sinh lão bệnh tử, vì đó là quy luật của mọi kiếp nhân sinh..."
         
Chúng con biết, cách sống của Đức Tổ như viên Ngọc minh châu trong chéo áo Như Lai, ở Pháp hoa kinh, khi trong sáng như Nông thiền.

        Vào nhân duyên ấy, là mùa Xuân 2010, chúng con được sự chỉ dạy sâu lắng lúc Đức Tổ tuồi ngoài 94.
        Vậy là, hôm nay chúng con mất đi pháp âm, vị Bồ Tát hiện thân Hoa Tạng giới, cõi Tỳ Lô.
       Chúng con biết rằng: Sanh Tử Như Tổ Gọi Phật Rước Tổ Về Chốn Thiền Gia Liên Đài.
       
Nhớ lời Đức Tổ trao thi kệ:

        “ Minh Hành Gia Tâm Hỷ.
          Thế Phú Thọ Khắc Kinh.
          Không Thành Sắc Bạch Tuệ.
          Ứng Giới Pháp Uy Linh”

ht pho tue (1)ht pho tue (2)ht pho tue (3)ht pho tue (4)ht pho tue (5)



Và đây cũng là thi kệ tu học, trong suốt quá trình Vân du, đồng thời Năm 2016, chúng con về chốn Tổ Viên Minh, cung thỉnh Đức Tổ vào ngôi vị chứng minh Pháp bảo khắc kinh: Lăng Nghiêm, Pháp Cú, và các mộc bản do con Minh Thế trì nguyện để khắc.

         
Đức Tổ đã tác chứng cho chúng con.

Hôm nay, chúng con vọng về giác linh đài nơi chốn Tổ Viên Minh- Phú Xuyên- Hà Nội. Lưu nhục thân Đức Tổ.
         
Chúng con cung kính Bạch Vọng.

Nam Mô Diệu Kính Bảo Tháp ma ha tỷ khiêu Bồ tát giới pháp danh  Thích Phổ Tuệ đạo hiệu Phổ Thông thiền gia pháp chủ đại lão hòa thượng Nhục Thân Bồ Tát  thiền tọa hạ.

Thành Tâm Cung Kính Khể Thủ Lễ.

                 Tk: Thích Minh Thế
                 Bút danh: Hỷ Tâm Hải Triều.
                 Bút hiệu: Tịnh Nhật Vân Quang
                 Ngày 21-10-2021
                 Ngày Âm Lịch: 16-09-Tân Sửu.
Viết tại Thiền Thất Phổ Tịnh- Hà nội, nhân mùa  Thu xứ Hà Nội Cố Hương,  giữa mùa bệnh viên phổi COVID-19. Từ nơi xa ấy vọng về tâm hương…!





ht pho tue

Tiểu sử Đức Pháp chủ GHPGVN
Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021)



1. Thân thế

Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ, thế danh Bùi Văn Quý, sinh ngày 12-4-1917 tại thôn 5, xã Phùng Thiện, tổng Bồng Hải, nay là thôn Phùng Thiện, xã Khánh Tiên, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Thân phụ là cụ ông Bùi Quang Oánh, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Thinh. Song thân của ngài đều là những Phật tử thuần thành. Ngài là người con thứ 2 trong gia đình có 3 anh em.



2. Hành trạng - Xuất gia tu học

Vốn được sinh ra trong gia đình có truyền thống thâm tín Phật pháp, cho nên hạt giống bồ-đề của ngài sớm nảy nở, lên 9 tuổi (tức năm 1925), ngài được song thân cho đến chùa ở với Sư cụ Thích Đàm Cơ, trụ trì chùa Phúc Long, thôn Phú An, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình và được Sư cụ cho theo học chữ Nho với cụ đồ Hiệng nổi tiếng trong vùng.

Năm ngài 13 tuổi (tức năm 1929) Đại lão Hòa thượng được Sư cụ cho đến làm đệ tử Sư tổ Thích Nguyên An, trụ trì chốn tổ Vọng, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Trải qua 3 năm tu học, đến năm 16 tuổi (tức năm 1932), ngài được Sư tổ Vọng cho thụ giới Sa-di tại Giới đàn hạ trường chùa Đống Cao, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.



Năm 18 tuổi (tức năm 1934), Đại lão Hòa thượng đến sam học và y chỉ vào Sư tổ Thích Quảng Tốn, trụ trì tổ đình Viên Minh, thôn Khai Thái, xã Tầm Khê, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). Khi vừa tròn 20 tuổi (tức năm 1936), Ngài được thụ Cụ túc giới và Bồ-tát giới tại Đại giới đàn tổ đình Viên Minh, do Sư tổ Thích Quảng Tốn làm Đàn đầu Hòa thượng.

Sau khi đầy đủ giới pháp, ngài bắt đầu quá trình sam phương cầu đạo. Ngài đến sam học ở hầu hết các sơn môn, tổ đình lớn thời bấy giờ như sơn môn Tế Xuyên, sơn môn Hương Tích, tổ đình Vĩnh Nghiêm...

Tiểu sử Đức Pháp chủ GHPGVN - Đại lão Hòa thượng Thích Phổ Tuệ (1917-2021) ảnh 2

Đại lão Hòa thượng trong lễ cầu nguyện tại chùa Quán Sứ, Hà Nội


- Hoạt động Phật sự:

Từ năm 1952 Ngài vẫn du hành đạo tại chùa Linh Ứng, thôn Kim Đới I, xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Đến năm 1957, ngài lại trở về hầu thầy phụng Phật tại tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.

Năm 1961, Sư tổ Thích Quảng Tốn trụ trì đời thứ hai tổ đình Viên Minh viên tịch, ngài được kế đăng làm trụ trì đời thứ ba tổ đình Viên Minh từ đó cho đến nay.

Đến năm 1987, Đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử ba vị cao Tăng là cố Hòa thượng Thích Kim Cương Tử, cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu và cố Hòa thượng Thích Tâm Thông về tổ đình Viên Minh mời ngài lên Hà Nội chủ trì hiệu đính Đại tạng kinh Việt Nam và tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội. Từ đó, ngài đã đảm nhiệm nhiều chức vụ trong các cấp Giáo hội qua các thời kỳ như sau:

- 1993 - 2008: Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Hà Tây.

- 1993 - 2008: Hiệu trưởng Trường Trung cấp Phật học Hà Tây.

- 1992 - 1997: Hội đồng Trị sự GHPGVN.

- 1997 - 2007: Phó Chủ tịch HĐTS kiêm Phó Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.

- 2002 - 2007: Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

- 2003 - 2007: Viện trưởng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội.

- 2003 - 2007: Tổng Biên tập tạp chí Nghiên cứu Phật học Việt Nam.

- 2007 - nay: Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

- 2009 - nay: Đường chủ các hạ trường tại các tỉnh, thành phố.

- 2009 - nay: Đàn đầu Hòa thượng các Đại giới Đàn tại các tỉnh, thành phố.

Bên cạnh việc đảm nhiệm các chức vụ Giáo hội, ngài cũng có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, từ phong trào bình dân học vụ đến phong trào xây dựng hợp tác xã sau khi hoà bình lặp lại. Cùng với việc chăm lo chùa cảnh góp phần xây dựng quê hương, ngài là bậc chân tu, luôn giữ tình đoàn kết các tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngài tham gia làm Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQVN nhiều khoá, từ khoá 4 đến khoá 9 hiện nay.


- Tác phẩm dịch thuật và trước tác

Ngài là bậc cao Tăng thông tuệ am hiểu Tam tạng thánh giáo. Đặc biệt, ngài có nhiều đóng góp quan trọng trong việc biên soạn, dịch thuật và trước tác các tác phẩm về Phật học ở Việt Nam. Ngài dành cả cuộc đời cho sự nghiệp biên soạn, chú giải Đại Từ điển Phật học. Chú giảng và thuyết giảng kinh Lăng Nghiệm Đề cương kinh Pháp Hoa, kinh Bách dụ, Phật Tổ tam kinh, Phật học là tuệ học, kinh Di Đà Viên Trung sao, Bát Nhã Dư âm. Các bộ Luật Tỷ-khiêu, Luật Tỷ-khiêu-ni lược ký.

Ngoài những tác phẩm biên soạn, dịch thuật và trước tác về Phật học nêu trên, ngài cũng sáng tác nhiều bài thơ Đường luật, theo thể thất ngôn bát cú để sách tiến hàng hậu học trong các khoá an cư kết hạ.

- Ghi nhận công đức

Trong suốt cuộc đời hành đạo tại tổ đình Viên Minh, cũng như quá trình tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội và xã hội, Đại lão Hòa thượng đã có nhiều đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc. Công đức ấy luôn được Giáo hội và Nhà nước trân trọng ghi nhận, trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhì; Huân chương đại đoàn kết dân tộc; Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Uỷ ban Trung ương MTTQVN và nhiều Bằng tuyên dương công đức của Giáo hội.


3. Thời kỳ viên tịch

Trải qua 105 năm hiện diện ở cõi sa-bà, với 85 hạ lạp, trên ngôi vị Pháp chủ GHPGVN, ngài đã trọn đời hiến dâng cho lý tưởng hoằng pháp lợi sinh. Công đức của ngài đã góp phần to lớn vào sự nghiệp làm sáng danh đạo Phật và dân tộc Việt Nam. Cuộc đời ngài từ sơ tâm xuất gia cho đến lúc hoá duyên đã mãn luôn luôn là tấm gương chiếu sáng trong công phu tu thân, hành đạo cho cả giới xuất gia và tại gia. Ngài luôn lấy giới hạnh tinh nghiệm làm thân giáo để răn dạy, sách tấn hàng hậu học. Cuộc đời ngài là biểu tượng tinh thần Bi - Trí - Dũng.

Đặc biệt trong công hạnh vô ngã vị tha, tận lực chuyên tâm vào sự nghiệp hoằng dương chính pháp, phục vụ nhân sinh, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững mạnh.

Thời khắc thiêng liêng tương hội, công đức hóa duyên viên mãn, Đức Đại lão Hòa thượng Pháp chủ GHPGVN đã thâu thần thị tịch vào hồi 3 giờ 20 phút ngày 21-10-2021 (nhằm ngày 16-9-Tân Sửu) tại tổ đình Viên Minh, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Ngài ra đi để lại trong lòng môn đồ tứ chúng, Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước niềm kính thương vô hạn, kính tiếc vô cùng. Ngài ra đi nhưng cuộc đời đức hạnh của ngài mãi mãi hằng hữu trong trang sử huy hoàng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Nam-mô Việt Nam Phật giáo Giáo hội Hội đồng Chứng minh Đức Pháp chủ Ma-ha sa-môn Tỷ-khiêu - Bồ-tát giới Pháp húy thượng Phổ hạ Tuệ Đại lão Hòa thượng Giác linh thiền tọa hạ.




facebook

youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8515)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8603)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10275)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14189)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8371)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17374)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 12082)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16726)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12955)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 7030)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]