Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cõi tạm (Kính tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm)

30/09/202118:38(Xem: 4513)
Cõi tạm (Kính tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm)

Chua Bao Quang 30 nam (34)
 

Cõi tạm
(Kính tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm)

Bài viết: HT. Thích Như Điển
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Trí Tường Dinh

 

Trước khi cha mẹ sinh ta ra, ta chẳng biết mình là ai và từ đâu đến; nhưng ta biết chắc chắn một điều rằng: Khi ta đã được đầu thai làm người chính là một phước báu không nhỏ đối với các cõi trong Dục giới. Bởi lẽ khi làm người chúng ta dễ tu hơn là chư Thiên ở các cõi Sắc. Vì những cõi nầy có tuổi thọ dài lâu và nhận nhiều phước báu hơn ở cõi người nên dễ mấy ai bỏ được niềm hỷ lạc ở những cõi tiên ấy. Nếu chẳng may sa vào ba cõi ở dưới là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì lại càng khó tu hơn nữa. Vì những nơi đó không có ánh sáng trí tuệ được soi rọi đến nên chúng ta vẫn mãi phải chịu vô minh sanh tử trong nhiều đời làm thú, chẳng biết bao giờ mới được làm người. Do vậy làm người được trong kiếp nầy là một phước báu không nhỏ.

Cũng có người đến rồi đi ngay khi còn trong bào thai của Mẹ. Cũng có nhiều người sinh ra tứ chi không đầy đủ, hay đui mù, câm, điếc v.v… Tất cả đều do những nhân mà đời trước họ đã tạo ra và hiện đời chỉ là những gì chúng ta gặt hái được mà thôi. Cha mẹ không thể gánh thế nghiệp của con cái được, mà giữa cha mẹ, con cái chỉ là nhân duyên hội tụ trong một thời gian dài ngắn khác nhau để trả nợ hay đền ơn đáp nghĩa cho nhau mà thôi. Cho nên gọi đây là cõi tạm. Sở dĩ gọi như thế bởi vì nó không chắc chắn. Do vậy Đức Phật dạy rằng: “Ba cõi không yên, như trong nhà lửa”. Chúng ta đang sống trong nhà lửa của ba cõi Dục Giới, Sắc Giới và Vô sắc Giới, mà những cõi nầy nào có an vui! Thế mà có khi chúng ta lại cho rằng những cõi ấy có thật. Tuy nó có đó nhưng chỉ trong thoáng chốc, trong từng sát na nó đã bị thay đổi bởi vô thường và do sự giả hợp của đất, nước, gió, lửa tạo thành. Rồi khi bốn yếu tố ấy không còn gắn liền được với nhau nữa thì chúng ta, con người cũng như vạn vật đều bị lôi cuốn theo. Bởi thế, tuy rằng thấy như thật đấy; nhưng đó chỉ là giả tướng, nếu chúng ta dùng tuệ giác để nhìn thấu qua, để khám nghiệm cuộc đời nầy.

Lâu nay chúng ta vẫn cho rằng cái nầy thuộc về ta, người nầy là của ta, của cải nầy là của ta v.v… nhưng trên thực tế khi hai tay buông xuôi rồi thì chẳng có cái gì là của mình cả và cũng chẳng có cái gì thuộc về mình. Ngoại trừ cái NGHIỆP nó đeo đuổi theo ta hoài không dừng nghỉ. Đây là một sự thật mà có rất ít người nhận chân ra được. Nếu ai rõ được điều nầy, người ấy sẽ rõ biết giáo lý của Đạo Phật là một giáo lý chân thật, dạy cho con người nhận chân ra sự thật của vô thường. Cũng chính vì nhận thấy rõ được sự không thật có nầy mà Thái Tử Tất Đạt Đa đã rời cung cấm để xuất gia tầm đạo khi Ngài 29 tuổi. Ở lứa tuổi thanh xuân, đầy hoa và mộng đẹp ấy Ngài đã bỏ lại hết sau lưng, đi vào rừng sâu núi thẳm, cốt tìm cho ra con đường diệt khổ. Đó chính là Tứ Diệu Đế, là 37 phẩm trợ đạo để cứu độ chúng sinh.

Rồi chư Tổ Sư truyền thừa cũng đã tiếp tục con đường thoát ly cõi tạm ấy để đến với Đạo Phật suốt hơn 25 thế kỷ qua. Dầu có nguồn gốc là người Ấn Độ, người Trung Hoa, người Đại Hàn, người Nhật Bản, người Việt Nam, người Thái Lan, người Anh, người Pháp, người Đức, người Mỹ, người Úc v.v…tất cả những vị xuất gia nầy tuy có khác nhau về nguồ gốc; nhưng khi đã vào Tăng Đoàn rồi thì đều lấy giới luật giống nhau làm căn bản; sống trọn vẹn một đời sống phạm hạnh của người xuất gia, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp v.v… Tất cả đều bình đẳng trên tinh thần giới luật của Phật chế; nhưng kết quả sự thực hành thì mỗi người khác nhau, không ai giống với ai cả. Có người thành tựu quả vị nhanh hơn và cũng có nhiều người lâu hơn hay dậm chân tại chỗ. Đây là do nhân duyên và nghiệp lực của mỗi người; chứ không phải do cha mẹ hay Thầy Tổ.

Ở một làng xã Xuyên Mỹ xa xôi; nơi quận Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam Việt Nam ngày ấy có một người con gái tên Mai, sinh năm 1939, xuất thân trong một gia đình thâm tín Phật Pháp. Ông Nội là một võ quan đã về hưu (ở quê tôi gọi ông là Ông Quản Thiều). Người cha là Ông Diên Trình đang làm việc ở Sở Công Chánh, sau khi vợ bị bạo bệnh và mất tại quê nhà đã nghỉ việc quay về quê mở trường dạy học, dành thời gian để thường lui tới các chùa, viện. Cô thiếu nữ nầy đã ý thức được sự vô thường sanh diệt; nên năm 15 tuổi xin phép gia đình xuất gia tầm đạo. Cô đã đến phố cổ Hội An tìm đến ngôi Chùa Sư Nữ Bảo Thắng. Thuở ấy đất nước Việt Nam tuy mới bị chia cắt Bắc Nam; nhưng đời sống hiền hòa từ chốn thôn quê dân dã đến phố cổ Hội An vẫn còn là nếp sống thanh bình an lạc. Khung cảnh an lạc chốn thiền môn đã giúp cho người Sư Nữ trẻ nầy lắng lòng làm bạn với tiếng kinh lời kệ, vui với sớm hôm chuông mõ muối dưa. Đời sống người xuất gia tuy đạm bạc nhưng nhờ ơn giáo dưỡng của sư phụ là Sư Bà Đàm Minh, người thiếu nữ ấy sau này đã trở thành một pháp khí của Thiền môn khi bắt tay thực hiện các chương trình từ thiện xã hội của Giáo Hội. Đó là lúc điều hành Cô Nhi Viện Diệu Định ở Đà Nẵng, đặc trách trường mẫu giáo của chùa Sư Nữ Bảo Thắng Hội An hay Ký Nhi Viện Bảo Quang và một vài nơi khác.

Rồi một ngày quê hương bị binh biến, bao nhiêu cảnh cũ người xưa bắt đầu từ tháng 4 năm 1975 đã hoàn toàn bị thay đổi. Từ ngày đó hàng triệu người Việt Nam đã lưu lạc khắp nơi trên toàn cầu để tìm cầu không khí tự do. Đến đầu những năm 1980 tình hình chính trị trong nước càng căng thẳng hơn, người em của Sư là Bác Sĩ Thị Minh Văn Công Trâm đã làm giấy bảo lãnh Sư sang Đức theo diện đoàn tụ gia đình nhưng Sư vẫn nấn ná chưa chịu đi vì muốn ở lại quê hương phụng hầu Thầy Tổ, nhất là thời gian này sư phụ đã già yếu. Trong khi đó làn sóng người tỵ nạn đến Đức ngày càng dồn dập, nhu cầu hướng dẫn và chăm sóc đời sống tinh thần của Phật tử trên xứ người ngày càng bức thiết hơn. Giữa năm 1981 tôi đã viết hai lá thư gởi về Việt Nam; một gởi cho Sư Diệu Tâm để hối thúc Sư đi làm giấy tờ xuất cảnh, một lá thư khác gởi trực tiếp đến Sư phụ của Sư là Sư Bà Đàm Minh ở Đà Nẵng đề nghị Sư Bà khuyên Sư Diệu Tâm nên sang Đức nhanh để cùng hợp lực với chúng tôi trong những Phật sự gian nan này. Do vậy, mùa hè năm 1984 Sư Diệu Tâm đã đặt chân đến Hamburg. Bước đầu nào mà không đầy ắp khó khăn: từ ngôn ngữ, khí hậu, phong tục, tập quán v.v… mọi thứ đều lạ lẫm. Có lần Sư bảo rằng: “Làm việc Đạo tại xứ Đức nầy khó khăn giống như người đi gieo hạt Bồ Đề trên nền xi măng”. Quả thật vậy! làm việc Đạo ở xứ Âu Mỹ nầy nó chẳng đơn thuần là mấy; chính cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm cũng đã có lần thổ lộ nỗi khó nhọc này là: “trồng sen trên xứ tuyết”. Và đây là một đề tài mà Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng ở Úc đã viết một bài khảo luận rất hay và trọn vẹn với ý nghĩa của những nhận định ấy (xem bài này).

Tôi được quen biết vị Sư Nữ ấy từ khi quê hương còn chinh chiến. Có lúc tôi gọi Sư bằng Chị cho thân mật, lúc gọi bằng Cô, lúc gọi bằng Sư, rồi Ni Sư, Sư Bà v.v… nghĩa là tất cả các cách gọi khác nhau; nhưng tựu chung vẫn là người cùng quê hương Xuyên Mỹ thuở nào. Mỗi khi tôi đến thăm Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm, kể từ khi Niệm Phật Đường Bảo Quang mới được thành lập tại Hamburg vào năm 1984 tính đến nay cũng đã 37 năm rồi, mỗi lần như thế chúng tôi đều kể cho nhau nghe về quê hương xứ Quảng, ai còn ai mất cũng như bàn về các công việc Phật sự đó đây. Có lần Sư nói với tôi rằng: “Sao có kẻ thấy người khác phát tâm đi làm Phật sự mà lại cứ lời ra tiếng vào. Bởi vậy Sư đã khuyên những kẻ ấy là: Chớ nên cản duyên thiện sự. Người ta làm chùa, đúc tượng, tô chuông để cúng dường Tam Bảo, phục vụ nhân sinh chứ họ đâu có tội tình gì mà mình cản trở việc làm thiện lương nầy. Nếu ta không đóng góp được gì thì cứ chọn thái độ lặng thinh. Còn bàn ra tán vào, khiến cho kẻ khác nản chí cũng là một cái tội đấy”. Khi nghe những lời phân tích tình lý như vậy, có nhiều người trước kia thường phê phán này nọ thì nay không còn phê bình nữa. Đồng thời những vị trước kia đã nản lòng, nay phấn chấn tiếp tục lên đường để lạc quyên và tạo cơ hội cho nhiều người khác gieo duyên với Tam Bảo.

Nhiều khi Sư tâm tình với quý Thầy trẻ rằng:” Tôi thấy quý Thầy cái gì cũng được, cũng giỏi; nhưng nhiều Thầy rất yếu lòng với nữ sắc”. Điều nầy hẳn thật có! Bởi lẽ suốt cuộc đời tu hành của Sư với 57 năm hạ lạp và bao nhiêu năm học đạo với Tiểu Ni, Sa Di Ni, rồi Thức Xoa Ma Na Ni đến Tỳ Kheo Ni; trải qua không biết bao nhiêu là thử thách để được nhận giới thể Tỳ Kheo Ni, Sư đã phải chiến đấu với tự thân, với chính mình và với tha nhân; nên Sư mới còn trọn vẹn cho đến ngày hôm nay sau 83 năm có mặt nơi trần thế và 68 năm trong đạo như vậy. Chúng ta có thể tuyên dương Sư với câu: “Đồng Nữ Thanh Tịnh Đại Trượng Phu” hay “Một bậc Ni Lưu Khả Kính của Giới Xuất Gia” cũng không ngoa chút nào. Người xưa nói rằng: “Chiếc áo không làm nên Thầy Tu”; nhưng trên thực tế nếu người Tu Sĩ mà không mặc chiếc áo người Tu thì cũng không thể gọi là một nhà Tu hành được. Nhờ chiếc áo mà phạm hạnh của một người Tu có thể giữ tròn được. Ở ngoài đời kia có biết bao nhiêu người cạo tóc; nhưng không cạo tâm và không mặc chiếc áo nhà tu thì cũng chẳng thể gọi họ là Tu Sĩ được.

Hôm lễ tang của Sư tôi đã nhắc lại hai điều quan trọng nầy rồi; chỉ có thiếu một việc là ngâm bài thơ: “Bao giờ nhĩ tôi về thăm xứ Quảng” của nhà thơ Trần Trung Đạo cho Sư nghe vì tôi biết sinh thời Sư cũng rất thích bài thơ này. Chương trình Đêm Tâm Tình trước khi di quan Sư hôm đó thời gian quá khít khao nên tôi đã không ngâm tặng Sư được và hẹn đến tuần 49 ngày. Nhưng rồi lại cũng một lần nữa không ngâm được vì thời gian Lễ Tuần 49 ngày cũng không cho phép. Cuối cùng tôi đã ngâm trong căn phòng của Sư từng ở, có sự hiện diện của Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt và Hòa Thượng Thích Trí Minh nghe và chắc chắn hôm đó Sư cũng đã nghe rồi. Như vậy món nợ nầy tôi đã trả và mong rằng Sư hãy ở yên nơi cõi Tịnh, dõi mắt về nơi Ta Ba nầy để mừng cho Tử, Đệ của mình - cả tại gia lẫn xuất gia - ai ai cũng quý mến Sư nên đã đến, đi, chia xẻ, ngậm ngùi tiễn biệt Sư lần cuối khi xác thân cát bụi của Sư được chôn vào lòng đất vào ngày 30 tháng 7 năm 2021 vừa qua, kết cuộc một cuộc đăng trình dài 83 năm nơi trần thế, với 57 hạ lạp và 68 năm xuất gia hành đạo.

Bây giờ thì đến lúc mà người xưa thường nói là: ”蓋棺論定- cái quan luận định”. Bốn chữ này có nghĩa là khi nắp quan tài được đậy lại thì người đời mới có thể luận định đúng sai. Lúc nầy chính là lúc: “cái gì là sự thật, xin trả về cho sự thật”. Mà sự thật trên thế gian nầy là gì? Là chẳng có cái gì cả! Tất cả đều trống không. Tất cả đều vắng lặng như tinh thần của Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa mà Ngài Huyền Trang đã cho phiên dịch từ tiếng Sanscrit sang chữ Hán từ ngày mùng một tháng giêng năm 661 đến ngày 23 tháng 10 năm 663, ròng rã suốt hơn 34 tháng trường. Kinh văn có 600 quyển, gồm 24 tập (xem kinh này, bản Việt dịch của Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm); mỗi tập dày độ 500 đến 700 trang và ý nghĩa cuối cùng chỉ là một chữ KHÔNG. Không đây là: không đến, không đi, không còn, không mất, không tăng, không giảm, không một mà cũng chẳng phải khác một.

Đó là một chấm câu và cũng để kết thúc một chuyến đi về của Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm trên cõi tạm nầy. 

Viết xong vào lúc 13:00 ngày 3 tháng 8 năm 2021 nhằm ngày 25 tháng 6 năm Tân Sửu tại thư phòng của Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

 






facebook-1
***
youtube

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2022(Xem: 3819)
Hòa thượng Thích Liễu Minh, tên thật là Lê Văn Hiến, Pháp danh Thị Huyền, Pháp tự Liễu Minh, hiệu Trí Hải, sinh ngày 7/3/1934 (nhằm ngày 3/2 năm Giáp Tuất), tại thôn An Hòa, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Nghĩa Bình (tức tỉnh Bình Định ngày nay).
24/08/2022(Xem: 2824)
Hòa thượng thế danh Nguyễn Ngọc Khiết, Pháp danh Nguyên Quang, Pháp tự Thích Tín Đạo, bút hiệu Ngân Thanh; thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 44. Hòa thượng sinh năm Bính Tuất (1946) người làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ngọc Chút pháp danh Nguyên Đại, thân mẫu là cụ bà Hồ Thị Mài pháp danh Nguyên Khiết. Thầy sinh ra trong một gia đình mộ đạo và là em út của 5 chị anh. Trong đó có vị vừa là bào huynh vừa là pháp huynh là Hòa thượng Thích Lưu Thanh.
17/08/2022(Xem: 4086)
Thành kính cáo bạch Đức Trưởng lão Hòa thượng thượng THANH hạ HUYỀN Thành viên Hội đồng Tăng-già Bản thệ, Ân sư GĐPT Việt Nam Nguyên Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên GHPGVNTN Nguyên Chánh Thư ký Hội đồng Tăng-già Bản thệ Nguyên Trưởng ban Ban thường trực Hội đồng Giáo giới GĐPT Việt Nam thuận thế vô thường thị tịch vào lúc 05h00 ngày 16 tháng 08 năm 2022 (nhằm ngày 19 tháng 07 năm Nhâm dần). Trụ thế : 78 năm, 57 giới lạp. Tang lễ Đức Trưởng lão Hòa thượng được cung kính cử hành tại Quảng Hương Già Lam, 498/11 đường Lê Quang Định, phường 01, quận Gò Vấp. Lễ cung thỉnh báo thân nhập kim quan: vào lúc 18h00 ngày 16 tháng 08 năm 2022 (nhằm ngày 19 tháng 07 năm Nhâm dần). Lễ phụng tống kim quan trà tỳ: vào lúc 06h00 ngày 21 tháng 08 năm 2022 (nhằm ngày 24 tháng 07 năm Nhâm dần).
13/08/2022(Xem: 3621)
Nguyên trinh lồng lộng bóng trăng Lăng Già Cao vời Bát nhã thuyền qua lặng lờ Mãn vui cõi tạm đợi chờ Chân Như Giác tìm phương tiện đến nơi Bồ Đề Huyền đạo hướng về Phật tổ tông Pháp thế học văn thông tinh tế Không hữu cùng một thể lý đồng Thiền sư Mãn Giác không huyền không.
11/08/2022(Xem: 4856)
Chiều ngày 12-7- Nhâm Dần (9-8-2022), tại chùa Minh Châu, tổ dân phố Thanh Châu, phường Ninh Giang, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa và môn đồ pháp quyến trang nghiêm thỉnh nhục thân Ni trưởng Thích nữ Minh Châu, Chứng minh Phân ban Ni giới Phật giáo tỉnh Khánh Hòa nhập kim quan. Quang lâm chứng minh có Hòa thượng Thích Trừng Giác, Chứng minh Ban trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, viện chủ chùa Phổ Hóa; Thượng tọa Thích Nhuận Đức, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, Trưởng ban Tổ chức lễ tang; Ni trưởng Thích nữ Thông Thuận, Chứng minh Phân ban Ni giới; Ni trưởng Thích nữ Diệu Vân, Trưởng phân ban Ni giới Phật giáo tỉnh Khánh Hòa cùng chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử tham dự cầu nguyện.
02/08/2022(Xem: 3223)
Giáo sư Jonathan C. Gold dạy về các bộ môn tôn giáo Ấn Độ và Tây Tạng, và nghiên cứu của ông tập trung vào các truyền thống tri thức Phật Giáo Phạn và Tạng ngữ đặc biệt các lý thuyết về sự giải thích, chuyển dịch, và học tập. Cuốn sách gần đây của ông, “Paving the Great Way: Vasubandhu’s Unifying Buddhist Philosophy” [Xây Đường Lớn: Triết Lý Phật Giáo Nhất Quán Của Ngài Thế Thân]
27/07/2022(Xem: 2735)
Thiếu thời mộ Phật kết thiền âm Nương chốn già lam thoát khỏi trần Học đạo tinh cần dương chánh pháp Tu tâm dõng mãnh độ mê thần Kế thừa ấn tổ xây bờ thiện Dắt dẫn môn sinh hướng cõi chân Giới thể tinh nghiêm đèn tuệ sáng Hương thơm đức hạnh toả xa gần
20/07/2022(Xem: 6721)
Cáo Phó Lễ Tang: Hòa Thượng Thích Như Minh, Trụ Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, California, Hoa Kỳ, vừa viên tịch
09/07/2022(Xem: 4294)
Do duyên lành đưa đẩy tôi mới quyết định xuống Chùa Tổ Viên Giác tại Hannover để dự lễ Khánh Tuế lần thứ 73 của Sư Ông Viên Giác vào ngày 28 tháng 6 năm 2022, mặc dù tôi chẳng được mời! Nhưng dù sao tôi cũng là đệ tử của Sư Ông, nhớ ngày sinh nhật của Sư Phụ đến chúc thọ cũng phải đạo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]