Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ni trưởng khai sơn Tổ Đình Bảo Quang (Đà Nẵng) Thích Nữ Đàm Minh (1912-1992)

20/09/202107:17(Xem: 3909)
Ni trưởng khai sơn Tổ Đình Bảo Quang (Đà Nẵng) Thích Nữ Đàm Minh (1912-1992)

su ba dam minh



Ni trưởng khai sơn

Tổ Đình Bảo Quang (Đà Nẵng)

Thích Nữ Đàm Minh (1912-1992)





Ni Trưởng thế danh Hoàng Thị Bút, pháp danh Tâm Quang, tự Đàm Minh, hiệu Minh Đức, sinh ngày 20 tháng 4 năm Nhâm Tý (năm 1912) tại xã Hưng Yên, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.


Thân sinh là cụ ông Hoàng Nguyên Hoa-pháp danh Tâm Chánh, thân mẫu là cụ bà Lý Thị Hợp. Gia đình có 5 người con gồm 1 trai 4 gái và Ni trưởng là chị cả.

Vốn xuất thân trong gia đình khoa bảng, thấm nhuần giáo lý đạo Phật, trong gia tộc có người cô ruột xuất gia tại chùa Điệt, thành phố Vinh là Sư bà Đàm Thanh. Nhờ có nhân duyên quá khứ cùng với thiện duyên hiên tại tạo nên cơ duyên thuận lợi cho Ni trưởng xuất gia, tầm sư học đạo .

Từ thuở ấu thơ, Ni trưởng thường gần gũi Sư bà Đàm Thanh nên cũng ảnh hưởng ít nhiều tinh thần Phật Giáo. Năm 17 tuổi Ni trưởng phát tâm xuất gia, mặt dù lúc bấy giờ hai cụ thân sinh luôn cần sự có mặt của các con bên cạnh, nhưng chí nguyện xuất trần, Ni trưởng quyết tâm thoát cảnh trần duyên, tìm đến Cố đô Huế xin Hòa thượng Đệ nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết cầu xuất gia và được Hòa thượng cho thọ Sa Di Ni tại giới đàn chùa Tường Vân, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế hệ thứ 9 pháp phái Liễu Quán. Sau đó, Ni trưởng cùng quí Sư bà an trú tại chùa Từ Đàm, lúc bấy giờ là cơ sở đầu tiên của Ni bộ Trung phần Việt Nam.

Năm Canh Ngọ (1930), hưởng ứng phong trào chấn hưng Phật Giáo, Sư bà Diệu Không cùng quí Sư bà Trung Nam bộ được sự chỉ đạo của Giáo hội Tăng già Trung phần đứng ra xây dựng Ni trường Diệu Đức, làm cơ sở đào tạo Ni giới ngõ hầu xương minh Phật Pháp. Từ đó, Ni trưởng cùng quí Sư bà miền Nam chuyển về Diệu Đức Ni viện đảm nhận công viêc Ni trường từ lúc phôi thai đến lúc hoàn thành (hiện nay Ni trường Diệu Đức đã trở thành Trung tâm đào tạo Ni của Ni bộ Trung phần). Ni trưởng đảm nhận chức vụ lo kinh tế, tài chính của Ni trường.

Năm Giáp Thân (1944), Ni trưởng được phép của Bổn Sư đăng đàn thọ Đại giới tại Giới đàn chùa Thiền Tôn do cố Hòa Thượng Thích Giác Nhiên-Đệ nhị Tăng Thống làm Đàn đầu Hòa Thượng.

 Ngoài việc chăm lo đời sống và dìu dắt Ni chúng, Ni trưởng còn được Giáo hội Thừa Thiên cử đi giảng dạy Giáo lý các khuôn hội vùng sâu vùng xa trong tỉnh, đoàn sứ giả của Như Lai đã mang ánh sáng chánh pháp đến những miền thôn dã. Phong trào chấn hưng Phật Giáo mỗi ngày càng lan rộng, nhu cầu tu học của Phật tử mỗi ngày một đông.Vì lẽ đó, Giáo hội Tăng già Quảng Nam -Đà Nẵng tiếp nhận của ba thí chủ cúng một ngôi nhà và đất để kiến thiết chùa Bảo Thắng làm cơ sở Ni bộ đầu tiên của Quảng Nam-Đa Nẵng. Khi ngôi Tam Bảo hoàn thành, được quý Tôn đức Tăng già giao quyền cho Ni bộ Trung phần và dưới sự chỉ đạo của Hòa thượng Thích Đôn Hậu (viện chủ chùa Linh Mụ) Ni bộ đề cử Ni trưởng đảm nhận chức vụ trụ trì chùa Bảo Thắng vào năm 1956 .Về đây, Ni trưởng đã xây dựng nhà Đông, nhà Tây, Chánh điện trang nghiêm để quy tụ Ni chúng, hướng dẫn tín đồ, góp phần thăng hoa Phật sự  tại Phố cổ Hội An. Vào thời gian này, thị xã Đà Nẵng trên đà phát triển, đạo Phật được xiển dương, hầu hết tín nữ tại đây mong muốn có được một ngôi chùa Ni để có nơi sinh hoạt, tu học. Đáp ứng nguyện vọng tha thiết ấy, Giáo hội Tăng già Quảng Nam-Đà Nẵng cùng Hòa thượng Thích Tôn Bảo và Hòa thượng Thích Trí Giác đứng ra mua đất, chịu trách nhiệm về mặt pháp lý và bàn giao cho Ni trưởng việc xây dựng Bảo Quang Ni tự. Còn ngôi Bảo Thắng giao lại cho quý Sư bà Như Hường và Diệu Hạnh đảm nhiệm.

Vào năm Nhâm Dần (1962), Ni Trưởng cùng hàng đệ tử ở Bảo Thắng chuyển ra Đà Nẵng và thâu nhận chúng điệu tu học. Từ đây ngôi chùa Bảo Quang trở thành trụ sở của Ni bộ Quảng Nam Đà Nẵng dưới sự lãnh đạo của Ni trưởng.

Vào những năm 1963 và 1966, phong trào đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, chống lại chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm và chế độ Ngụy quyền Sài Gòn đang dâng cao, Ni trưởng và Ni chúng Bảo Quang tích cực tham gia vào các cuộc biểu tình tuyệt thực. Sự nhiệt tâm của Ni trưởng và chư Ni Bảo Quang trong phong trào này được thể hiện qua sự hy sinh của Sư cô Diệu Định, một trong những đệ tử lớn của Ni trưởng. Sư cô Diệu Định đã phát nguyện tự thiêu làm ngọn đuốc đầu tiên của Phật Giáo Quảng Nam-Đà Nẵng, ngọn đuốc ấy bùng cháy vào ngày Rằm tháng 4 năm Bính Ngọ (1966) Bảo Quang Ni Tự là “hậu phương” cho phong trào yêu nước của Tăng Ni và Phật tử  miền Trung, Nam bộ.

Vào các năm 1967 và 1971, Ni trưởng thường mở các đàn truyền giới  Sa Di và Thức-xoa cho chư Ni tu học.

Tháng 5 năm Ất Mão (1975), Ni trưởng được cung thỉnh làm Đệ nhị tôn chứng tại Đại giới đàn chùa Từ Nghiêm-Sài Gòn.

Sau năm 1975, với sự quan tâm của Ni trưởng về việc tu học của Ni chúng, Ni trưởng đã sử dụng ngôi Bảo Quang-trụ sở của Ni bộ Bắc tông Quảng Nam -Đà Nẵng làm nơi an cư tập trung cho Ni giới tỉnh nhà và mở các khóa Bát Quan Trai cho Phật tử tu tập. Ngoài ra, ngôi Bảo Quang còn là nơi giao lưu của quý Sư bà, Ni sư khắp ba miền đất nước. Ni trưởng cẩn trọng trong từng lời nói khi giao tiếp, kỷ cương trong giới luật. Đối với Ni chúng rất nghiêm, xử phạt công minh, nhắc nhở từ oai nghi tế hạnh: đi, đứng, nằm, ngồi nhất nhất điều y giới luật. Về đời thường lúc nào Ni trưởng cũng thương yêu và lo lắng cho Ni chúng từ việc nhỏ đến việc lớn, từ người gần đến người xa.

Trên đường hành đạo, Ni chúng theo học ngày càng đông nhưng cơ sở vật chất ngôi Bảo Quang không thể thâu nhận hết môn hạ, để tạo điều kiện tu học cho Ni chúng, Ni trưởng đã giúp đỡ tài chánh trong việc xây dựng ngôi Bảo Vân Ni tự tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh và Ni trưởng đã gởi một số Ni chúng vào Nam sống tu học tại đây .

Từ bước đầu chỉ với hai ngôi Bảo Thắng và Bảo Quang đến nay đã có trên 30 chùa Ni rải rác trên 11 huyện thị, quy tụ hơn 100 Ni chúng và hàng vạn tín đồ về thọ pháp với Ni trưởng. 

Sau một thời gian đóng góp công sức cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam, sức khỏe của Ni trưởng dần suy yếu thường hay ốm bệnh. Chúng đệ tử đã thỉnh Ni trưởng ra trụ ở Diệu Đức-Huế để bác sĩ Bách điều trị nhưng bệnh tình ngày một xấu đi, lại đi vào Nam tiếp tục điều trị. Thấy bệnh không thuyên giảm, Ni trưởng quyết định trở về ngôi Bảo Quang là nơi Ni trưởng đã gắn bó suốt cuộc đời hành đạo.

Được tin Ni trưởng trở về, môn đồ đệ tử vân tập đông đủ thăm hỏi và chăm sóc;  trong dịp này, Ni trưởng đã dặn dò: “Mấy con giới pháp đã tạm đầy đủ; cả đạo lẫn đời, chị em phải y theo lời Phật dạy, sách tấn cùng nhau tu học, thương yêu đoàn kết đùm bọc lẫn nhau. Trên lấy nhiệm vụ hoằng pháp lợi sanh làm sự nghiệp, dưới vâng lời dạy dỗ của quý Sư bà. Có được như thế, tôi mới an tâm về cõi Phật”.

Khi quý Ni trưởng, Ni sư các tỉnh về thăm vấn an sức khỏe, Ni trưởng mở nụ cười hoan hỷ và nói : “Nhân duyên chúng ta đến đây tạm mãn, cám ơn quý Sư bà xa xôi đã đến thăm, tôi xin đa tạ. Để được an tâm giải thoát, nhờ Sư bà Từ Hạnh (Tọa chủ chùa Châu Phong ) hoan hỷ thay tôi làm trưởng ban Ni bộ Quảng Nam-Đà Nẵng chăm lo cho Ni chúng trong tỉnh nhà. Đệ tử xuất gia của tôi tuy đông nhưng Diệu Tâm và Diệu Cảnh là lớn, nay Diệu Tâm ở xa (Chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc), tôi biết rất thương tôi, Diệu Cảnh thay thế chăm lo Bảo Quang cố gắng giữ gìn như lúc tôi còn tại thế. Sau khi tôi vãng, nhờ Giáo hội và Ni bộ đưa tôi về hầu Tổ (Tại nghĩa trang Tổ đình Tường Vân) nơi mà tôi y chỉ và đắc pháp tại đây”.

Những lời thống thiết đạo tình đầy trách nhiệm của Ni trưởng; một con người trước sau, sống chết đều chăm lo cho Ni chúng. Sau mùa Phật Đản-Phật lịch năm 2536 vào lúc 16 giờ 15 phút ngày 18 tháng 4 năm Nhâm Thân (1992), Ni trưởng đã xả báo thân, an nhiên viên tịch giữa sự luyến tiếc mến thương của môn đồ, giữa ba hồi chuông trống Bát-Nhã và giữa tiếng niệm Di Đà tiễn đưa Ni trưởng về cõi Phật.

Suốt cuộc hành trình 80 năm trong trần thế và 58 năm hành đạo, Ni trưởng Thích Nữ Đàm Minh là một trong những vị Ni trưởng đầy tài năng và đức độ tích cực hoằng dương Phật pháp. Ngày hôm nay Ni bộ Quảng Nam Đà Nẵng được vững mạnh là cũng nhờ phần lớn công lao giáo hóa của Ni trưởng. Công hạnh và đạo nghiệp của Ni trưởng vẫn mãi là tấm gương sáng cho đàn hậu học Ni chúng noi theo.


Chùa Bảo Quang do Sư bà Thích Nữ Đàm Minh khai sơn vào năm 1960. Chùa được Ni trưởng Thích Nữ Diệu Cảnh tổ chức trùng tu phát triển hoạt động những năm gần đây, cho đúc đại hồng chung ngày 27-03-2015.

chua bao quang da nang 2
Toàn cảnh Chùa Bảo Quang, Đà Nẵng (Hình: Võ Văn Tường)

chua bao quang da nang 4
Chánh điện Chùa Bảo Quang, Đà Nẵng (Hình: Võ Văn Tường)

chua bao quang da nang 3
Chánh điện Chùa Bảo Quang, Đà Nẵng (Hình: Võ Văn Tường)




facebook-1
***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 771)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33715)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4672)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4640)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4605)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4560)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4883)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4610)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7544)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 8592)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567