Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Viên Giác (1912 - 1976) Dịch giả Lương Hoàng Sám Pháp

23/08/202115:09(Xem: 3344)
Hòa Thượng Viên Giác (1912 - 1976) Dịch giả Lương Hoàng Sám Pháp

ht thich vien giac

Thành Kính Tưởng niệm
Hòa Thượng Viên Giác
(1912 - 1976)
Chùa Giác Hải – Khánh Hòa

Hòa thượng thế danh là Trần Đại Quảng, pháp danh Tâm Trí, tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên, thuộc đời thứ 43 dòng Lâm Tế, Liễu Quán.

Ngài sinh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Dương Nổ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình Nho phong đức hạnh nhưng có chí cách tân, theo hướng Tây học. Thân phụ là cụ ông Trần Đại Dật, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mĩu (pháp danh Tâm Mỹ).

Ngài lớn lên theo truyền thống giáo dục gia phong, được tiếp xúc với nhiều bậc thân hữu trí thức của thân phụ trong những lúc hàn huyên hay luận bàn văn sách. Do đó Ngài đã sớm tiếp thu kiến thức sâu rộng, lý giải sự việc nhanh chóng, đạt lý thuận tình nên rất được lòng quần chúng. Ngài ham học hỏi, hiếu khách, nhất là được kết thân với các bậc thiện hữu tri thức, chính vì thế mà Ngài phát huy trí tuệ rất nhanh.

Nhờ tính năng động và chí phấn đấu trong học tập và lao động nên dù nghiêm thân mất sớm, Ngài, với tư cách con trưởng, vẫn giữ vững gia nghiệp, phụ giúp mẫu thân dưỡng dục các em học hành thành đạt, cụ thể là luật sư Trần Đại Khâm, nhờ công minh chính trực mà trở thành niên trưởng thẩm phán lừng danh. Cuối đời, ông theo gương anh xuất gia, tu hành nghiêm mật và mất tại Cali, Hoa Kỳ.

Ngoài việc chu toàn trách nhiệm gia đình, Ngài còn dành nhiều thời giờ nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Ngài nhanh chóng hấp thụ tinh hoa Phật học và nhờ thế mà hưng phấn tinh thần. Từ đó, Ngài ôm ấp hoài bão xuất gia tu học, hành đạo giải thoát khi chu toàn bổn phận với mẹ già và các em.

Năm Đinh Sửu (1937), vừa 26 tuổi, thấy gia đạo ổn định, các em đã thành đạt và an bề gia thất..., Ngài xin phép mẫu thân, từ giã gia đình, xuất gia quy y với Tổ Bích Không.

Năm Tân Tỵ (1941), sau bốn năm hành điệu, gánh nước bổ củi, học tập công phu, thực hành thanh quy giới luật, Ngài đã thể hiện trọn vẹn chí nguyện xuất trần, khả năng tiếp thu giáo pháp và được Bổn sư cho thọ Sa di giới. Sau đó, Ngài được phép học nội điển tại Phật học đường Báo Quốc.

Năm Kỷ Sửu (1949), hội đủ nhân duyên, Ngài được truyền thọ Tỳ Kheo Bồ Tát giới tại giới đàn chùa Báo Quốc Huế do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Đàn đầu Hòa thượng.

Sau khi kết thúc khóa học tại Phật học đường Báo Quốc, các vị đồng môn pháp lữ được cử đi hoằng pháp khắp nơi theo yêu cầu Phật sự của từng địa phương, riêng Ngài xin ở lại nhập thất ba năm với mục đích nghiên cứu thêm giáo điển và bồi dưỡng đạo lực trước khi lên đường phụng hành Phật sư.

Năm Giáp Ngọ (1954), Giáo Hội Tăng Già Trung Việt đề cử Ngài giữ chức Giám đốc Phật học đường Khánh Hòa. Và cũng trong thời gian này, Ngài được Hòa thượng Phước Huệ giao trách nhiệm trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).

Năm 1956, cùng với chư Tôn đức trong Giáo hội, Ngài Đã biến chùa Hải Đức thành Phật Học Viện Trung Phần, nơi đào tạo Tăng tài cho Giáo hội Phật giáo mai sau.

Rồi, theo yêu cầu Phật sự, Ngài được Giáo hội cử đi diễn giảng tại các vùng cao nguyên Trung phần. Nhân đó, Ngài đã đồng sáng lập và làm Hiệu trưởng trường Bồ Đề Tuệ Quang, Đà Lạt.

Ít lâu sau, trên bướcđường vân du hoằng hóa, Ngài lại đến Vạn Ninh, lập trường Phật học cho Tăng sinh tại Tổ đình Linh Sơn.

Trong lúc giáo dục Tăng Ni và xây dựng Giáo hội địa phương: Vạn Ninh, Khánh Hòa, Ngài gặp Cư sĩ Như Liên, người đang ẩn tu tại làng Xuân Tự trong một am tranh nhỏ bên gốc me già. Ngài được Cư sĩ giới thiệu các địa danh mang đậm bản sắc Phật giáo như làng Xuân Tự, núi Ông Sư, núi Phổ Đà... và tận mắt chứng kiến cảnh thôn làng yên ả, non nước hữu tình nên Ngài quyết định dừng chân trác tích, dựng chùa Giác Hải, lập hạnh tĩnh tu và tiếp Tăng độ chúng.

Năm Bính Thân (1956), chùa Giác Hải đã sừng sững tôn nghiêm giữa núi cao biển rộng, không những là nơi tu học và an cư kiết hạ của chư Tăng địa phương, mà còn là một tòng lâm phạm vũ của Giáo hội, đúng như tâm nguyện ấp ủ của Ngài.

Năm Quý Mão (1963), sau cơn Pháp nạn, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời, Ngài được tiến cử chức Thư Ký Tổng Vụ Hoằng Pháp thuộc Viện Hóa Đạo.

Sau đó Ngài về giảng dạy kinh văn Hán tạng cho Tăng chúng tại Phật học viện Trung phần và Ni viện Diệu Quang (Nha Trang).

Dù bận rộn với nhiều công tác Phật sự và xây dựng tòng lâm, Ngài vẫn nỗ lực hành trì theo mẫu mực thiền môn; và dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, đệ tử của Ngài cũng học được phong cách nhanh nhẹn hoạt bát, giản dị khiêm cung, nhất là tình thương của Ngài đối với môn đồ hậu bối.

Về sau, Ngài chuyên tâm trước tác và phiên dịch kinh điển mà Ngài đã dày công nghiên cứu và thực hiện từ lúc còn học tại Phật học viện Báo Quốc như:

-Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (Lương Hoàng Sám) trọn bộ 10 quyển
-Đại Thừa Kim Cang kinh luận (01 quyển)
-Phẩm Phổ Môn
-Bảo Tích (mới dịch, chưa hoàn chỉnh)
-Quan hệ tư tưởng
-Tìm hiểu Quán Thế Âm Bồ Tát (Phẩm Phổ Môn)
-Lịch sử phong cảnh chùa Giác Hải
-Khuyên niệm Phật (thơ).

luong hoang sam


Ngoài ra, Ngài còn nhiều tác phẩm khác chưa hoàn chỉnh và bị thất lạc trên bước đường hoằng hóa khắp nơi.

Năm Bính Thìn, Ngài thị tịch vào sáng ngày 14 tháng 7 năm 1976, tại chùa Giác Hải, hưởng thọ 65 tuổi đời, 27 hạ lạp.



(Nguồn tài liệu từ HT Thích Hải Ấn; Tịnh Minh, đệ tử của Ngài, hiệu đính )






facebook-1
***
youtube






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2012(Xem: 4393)
Sáng nay con về lại Vạn Hạnh, không phải đi học, không phải nộp bài thi, không phải đi đảnh lễ,... mà để đi tiễn Ôn về với Phật. Con hòa mình vào dòng người tấp nập trên giao lộ Nguyễn Kiệm trong buổi sớm bình minh. Một ngày như mọi ngày nhưng cảnh vật hôm nay không còn bình yên nữa. Cây cỏ úa màu, hoa buồn ủ rũ. Mọi người tất bật, nôn nao bước nhanh về cổng chùa Vạn Hạnh, như sợ chậm chân sẽ không còn chỗ cho mình cung tiễn Thầy đi.
08/09/2012(Xem: 7059)
Với Hòa thượng Minh Châu, một đại sư đã ra đi. Một đại sư cỡ ấy, thế hệ chúng ta chỉ có vài vị. Vài vị, nhưng là những ngọn đuốc soi sáng đường đi cho cả một nửa thế kỷ. Hôm nay, ngọn đuốc gần như là cuối cùng ấy đã tắt. Đã tắt, để nói với chúng ta, như Phật đã nói khi nhập diệt: Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
08/09/2012(Xem: 5115)
Tin Sư Ông ra-đi-về cõi bất sinh đã dệt nên những cơn bồi hồi, xúc động. Biết nói cái gì, và sẽ nói cái gì về một vầng ánh sáng chói lọi vừa lịm tắt? Càng cố nói về cái “rạng rỡ” thì càng trở nên vụng về! Nhưng vượt lên trên tất cả và vẫn còn hiện hữu nơi đây là tấm lòng tri ân sâu sắc đối với công trình dịch thuật Kinh tạng của Người. Lòng tri ân sâu thẳm đó vẫn âm ỉ trong tâm thức của những người từng có cơ duyên được học hỏi “triết lý giác ngộ”- một thứ triết lý nguyên thủyhàm chứa những kinh nghiệm chứng ngộ rất ngườicủa Đức Thế Tôn.
07/09/2012(Xem: 4652)
Các bạn thân mến, Tôi lớn lên trong cảnh bất công và quê hương nhuộm đầy máu lửa. Trái tim tôi đã dược nuôi dưỡng bằng tình yêu quê hương qua những tấm gương của các vị anh hùng yêu nuớc. Tôi yêu lí‎ tưởng Từ Bi của Đức Phật qua tinh thần bất bạo động, tôi không thích tham gia vào các tổ chức và các cuộc đấu tranh. Tôi đã đi dự những khóa tu của thầy Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai tổ chức trong một số chùa lớn của ba miền đất nuớc, trong thời gian Thầy về Việt Nam.
07/09/2012(Xem: 5262)
Trước tin Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu viên tịch, tôi xin thành kính có bài ghi lại kỷ niệm phước duyên được nghe ngài thuyết pháp. Đó là thời điểm những năm 1978, 1979… Vào lúc ấy, Tổng vụ Hoằng Pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức thuyết pháp hàng tuần vào lúc 15h chiều chủ nhật tại trụ sở của Giáo hội là chùa Ấn Quang.
02/09/2012(Xem: 8387)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
29/08/2012(Xem: 4550)
Tôi muốn nói đến Sư Huynh Phổ Hòa, người anh lớn trong Gia Đình Phật Tử Việt Nam tức Huynh Trưởng HỒNG LIÊN Phan Cảnh Tuân khả kính của chúng ta.
23/08/2012(Xem: 6648)
Kính bạch Sắc tứ Thập Tháp Tổ đình, Tân tịch trụ trì Thích Kế Châu, Đại lão Hòa thượng giác linh, tác đại chứng minh. Hôm nay, chúng tôi là những Pháp huynh, Pháp đệ thuộc dòng pháp Chúc Thánh, Tổ đình thứ hai Quảng Nam, và dòng pháp Thiền Tôn, Tổ đình thứ ba – Huế, tại Bình Định, và cũng là con cháu tám, chín đời dòng pháp Thập Tháp – Tổ đình thứ nhất, thuộc dòng pháp Thiên đồng Trung quốc tại Việt nam. Giờ này, tất cả chúng tôi đã vân tập đông đủ trước linh đài trang nghiêm, đau buồn này để làm lễ tiễn đưa kim quan Cố Đại lão Hòa thượng vào “BẢO THÁP MẬT TÀNG”, nghìn thu an nghỉ. Kính bạch Tân tịch Đại lão Hòa thượng giác linh! Trước hết, tại nơi đây, tất cả chúng tôi: Chí thành đến trước linh tòa, Cung kính dâng lên pháp cúng Kinh diên tán tụng,
04/08/2012(Xem: 6398)
Hòa thượng Thích Duy Lực, pháp danh Duy Lực, pháp tự Giác Khai, nối pháp thiền phái Lâm Tế. Ngài thế danh La Dũ, sinh ngày 5 tháng 5 năm Quý Hợi 1923, nhằm Trung Hoa Dân quốc thứ 12, tại làng Long Yên, huyện Phong Thuận, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; thân phụ là cụ ông La Xương, thân mẫu là cụ bà Lưu Thị. Ngài sinh trưởng trong một gia đình chuyên nghề nông trang, quy kính Tam bảo. Năm Mậu Dần 1938, Ngài được 16 tuổi, vừa học xong tiểu học thì phải lên đường theo cha sang Việt Nam sinh sống. Khi mới sang, gia đình Ngài dừng chân ở Cần Thơ lập nghiệp; trong những lúc rỗi rảnh Ngài thường tranh thủ tự học thên Hoa văn và quốc ngữ Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567