Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Tuệ Giác (1960-2021) Hội Trưởng Hội Thiền Học PGVN Hải Ngoại, Trụ Trì Tổ Đình Thiền Viện Trúc Lâm Đại Đăng, Cali, Hoa Kỳ

21/04/202104:51(Xem: 4652)
Tiểu Sử Thượng Tọa Thích Tuệ Giác (1960-2021) Hội Trưởng Hội Thiền Học PGVN Hải Ngoại, Trụ Trì Tổ Đình Thiền Viện Trúc Lâm Đại Đăng, Cali, Hoa Kỳ


TT ThichTue Giac


TIỂU SỬ

THƯỢNG TOẠ THÍCH TUỆ GIÁC (1960-2021)

HỘI TRƯỞNG HỘI THIỀN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM HẢI NGOẠI

TRỤ TRÌ TỔ ĐÌNH THIỀN VIỆN TRÚC LÂM ĐẠI ĐĂNG

 

I- THÂN THẾ

Thượng tọa thế danh Đào Ngọc Nam, sinh ngày 9 tháng 6 năm 1960 tại Ấp Sơn Long, Xã Sơn Định, Huyện Chợ Lách, Tỉnh Bến Tre. Thân phụ là cụ ông Đào Ngọc Ngoạn, một nhà giáo gương mẫu của làng quê. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Nhứt, hiền lương chơn chất. Gia đình của Thầy có mười anh chị em, sống trong tình thương yêu của Cha Mẹ. Bà nội của Thầy là một người tu tại gia, ăn chay niệm Phật. Tuổi ấu thơ, Thầy chịu ảnh hưởng lời kinh tiếng kệ của Bà nội, lại có cơ duyên đọc sách Phật.

Khi 12 tuổi Thầy nuôi ước nguyện xuất gia, thầm ước: “Sau này lớn lên cũng sẽ đi tu đắc đạo và sống đời cao đẹp như Đức Phật”. Tuy chưa được gia đình ủng hộ nhưng chí nguyện xuất trần đã giúp Thầy tham gia nhóm “Cư Sĩ Bạn Đạo” thường xuyên gặp nhau và trao đổi những lời Phật dạy để sống theo chánh pháp của Đức Như Lai.

II- XUẤT GIA TU HỌC

Năm 1986 nhân duyên lớn trong đời đã đến, Thầy và thầy Tuệ Tỉnh (người em chú bác) cùng quy y Tam Bảo với Hoà Thượng Thích Giác Trí, Viện Chủ Tịnh Xá Ngọc Thành, Bến Tre. Được sự giới thiệu của Hòa thượng Bổn sư, hai Thầy vào Thiền Viện Thường Chiếu công quả và được xuất gia vào ngày 8 tháng 12 năm 1986, được Hòa thượng Ân sư thượng Thanh hạ Từ ban đạo hiệu Thích Tuệ Giác.

Năm 1990 Thầy đăng đàn thọ giới Tỳ Kheo và Bồ Tát Giới tại Đại Giới Đàn, chùa Long Thiền, Đồng Nai. Nhờ công phu tu tập miên mật, siêng năng trong các công tác nên được Hoà Thượng Ân Sư, tin tưởng giao phó nhiều trọng trách như phụ Tri Khách, Tri Viên tại TV Thường Chiếu.

Sau khi Hoà Thượng Ân Sư tuyên bố nhập thất tại Vũng Tàu vào năm 1992. Thầy Tuệ Giác được Nhập Thất chuyên tu liên tục hơn một năm tại Thường Chiếu.


 

III- HÀNH ĐẠO

Năm 1994, Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt thành lập, thầy là một trong những Thiền Sinh được tuyển chọn. Đầu tiên lên đường khai phá rừng hoang mà lòng an vui, không quản ngại gian lao, vừa công tác vừa tinh cần chuyên sâu tu tập. Với cương vị phó quản chúng Nội Viện Tăng, Thầy những tưởng mình sẽ ung dung toạ thiền, lao tác, cùng chúng Tăng tu học cho đến ngày viên mãn.

Năm 2001, phật tử tại San Diego cúng dường cơ sở để Hòa thượng Ân Sư phát triển Thiền tông tại hải ngoại. Thầy Tuệ Giác và Thầy Tuệ Tỉnh được Hòa thượng giao phó trọng trách “đem chuông tỉnh thức trời Tây độ người”

Ngày 15 Tháng 9 Năm 2001 Lễ An Vị Phật tiếp nhận cơ sở Thiền Viện Đại Đăng trước biến cố 911 chỉ có 4 ngày. Có lẽ đó là sự báo hiệu những khó khăn và thử thách của Thầy kể từ những ngày đầu đến Mỹ. Phải đối diện với nền văn hóa, ngôn ngữ, luật lệ mới mẻ của xứ người.

Hơn 10 năm theo đuổi giấy phép xây cất Thiền Viện Đại Đăng, ít nhiều cũng tàn phá sức khỏe của một tu sĩ vốn xuất gia và sinh hoạt trong tình thương yêu, che chở của Thầy Tổ. Với bao nhiêu năm đợi chờ hy vọng, năm 2012 Thiền Viện Đại Đăng được chính thức cấp giấy phép xây dựng. Từ đó Thầy càng ra sức hoạt động để ngôi Tổ đình được sớm thành tựu. Bước chân hoằng pháp của Thầy đã rải khắp đó đây trên đất Mỹ, Canada, châu Âu. Hoạt động rất nhiều, Thầy không nghĩ đến bản thân, luôn hướng đến ước mong ngọn đèn lớn chánh pháp chiếu rọi muôn nơi. Trong gần 20 năm qua, Thầy đã làm lễ quy y cho gần hai ngàn Phật tử, xuất gia truyền giới cho gần cả một trăm Tăng Ni. Thầy vẫn sáng ngời phong cách của một tu sĩ, bao dung tha thứ, thong dong trên mọi nẻo đường.

IV- VIÊN TỊCH

Phật tánh là vô biên vô tận, nhưng thân tứ đại cũng phải thuận theo vô thường. Khoảng trước đây vài năm, Thầy được báo tin thân bệnh. Thời gian điều trị cũng là thời gian nỗ lực công phu để chuẩn bị lúc ra đi. Hơn 60 năm có mặt ở giữa đời, 35 năm xuất gia tu tập, gần 20 năm trụ trì Thiền Viện Đại Đăng, Thầy đã hiến dâng trọn vẹn cho lý tưởng “hoằng pháp lợi sanh”. Trong những ngày tháng cuối cùng, trước giờ viên tịch, các huynh đệ tại những thiền viện tại Mỹ, hàng đệ tử xuất gia tại gia đều có mặt tại Thiền Viện Đại Đăng, chung một niềm hỗ trợ. Vì đại dịch covid, chư tăng ni ở tại quê nhà Việt Nam không thể đến thăm viếng, chia sẻ nỗi ưu tư, chỉ nhất tâm cầu nguyện và theo dõi tin tức.

Thầy từ giã cõi tạm vào lúc 4 giờ 30 phút chiều ngày 10 tháng 4 năm 2021 (nhằm ngày 29 tháng 2 năm Tân Sửu) tại Thiền Viện Đại Đăng, quận hạt San Diego, tiểu bang California, trụ thế 62 tuổi, 31 hạ lạp.

Nam Mô Tân Viên Tịch Giác Linh Thượng Toạ Thích Tuệ Giác, Hội Trưởng Hội Thiền Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại. Trụ Trì Tổ Đình Thiền Viện Trúc Lâm Đại Đăng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 9058)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14547)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6732)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5385)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4880)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5292)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6113)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5947)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9385)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5017)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567