Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Quang Thể (1922-2005)

10/03/202107:26(Xem: 4876)
Hòa Thượng Thích Quang Thể (1922-2005)

ht thich quang the

TIỂU SỬ

CỐ HÒA THƯỢNG THÍCH QUANG THỂ

(1922-2005)

Chánh Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng
Khai sơn chùa Thọ Quang – Thành phố Đà Nẵng


I. GIA THẾ:

Cố Hòa Thượng thế danh Đặng Hữu Tường, pháp húy Nguyên Phước, tự Quang Thể, hiệu Đạt Minh; nối pháp đời 44 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 10 pháp phái Liễu Quán.

Ngài lâm thế ngày 19 tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922) tại làng An Hải, quận III (nay là phường An Hải, quận Sơn Trà), thành phố Đà Nẵng; chánh quán làng Quảng Lăng, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ Ngài là cụ ông Đặng Văn Vịnh (tức Nuôi) và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ớt. Ngài là trưởng nam trong một gia đình có năm anh em gồm ba trai và hai gái.

Năm lên 9 tuổi, thân phụ qua đời, từ đó mẫu thân một mình tần tảo nuôi con. Trong thời gian này, Ngài được mẫu thân gởi đến Thầy Tư Tri (Như Tín) – trụ trì chùa An Hải lúc bấy giờ – nhận cho nhập Chúng tu học.

II. THỜI KỲ XUẤT GIA TU HỌC:

Năm Nhâm Thân (1932), nhân duyên hội ngộ, Ngài chính thức xuất gia với Hòa Thượng Thiện Trí – giám tự chùa Linh Quang tại cố đô Huế và được Bổn Sư cho pháp danh là Nguyên Phước. Lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 11 tuổi. Từ đó, dưới sự dẫn dắt của Bổn Sư, đạo phong của Ngài ngày càng tăng trưởng, được Chư Tôn Đức thương mến, pháp lữ đồng học nể vì.

Năm Đinh Sửu (1937), Ngài được Bổn Sư cho theo học lớp Phật học tại Phật Học Đường Báo Quốc – Huế. Đồng khóa với Ngài gồm có các vị đã trở thành các bậc tôn túc sau này như Hòa Thượng Thiên Ân; Hòa Thượng Đức Tâm; Hòa Thượng Thiện Châu; Hòa Thượng Minh Tánh v.v…

Năm Kỷ Mão (1939), Hòa Thượng Bổn Sư ra khai sơn chùa Hiếu Quang nên Ngài theo thầy vừa gánh vác việc kiến tạo ngôi Tam Bảo, vừa tiếp tục theo học ở Phật Học Đường.

III. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO:

Năm Giáp Thân (1944), chiến tranh Pháp-Việt lan rộng, Ngài tản cư vào lại Quảng Nam. Tại đây, Ngài vận động thành lập Chi Hội Phật Học Nồi Rang, nay thuộc xã Xuyên Thọ, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Năm Kỷ Sửu (1949), Ngài được Bổn Sư cho thọ Cụ-túc giới tại Đại Giới Đàn Hộ Quốc tổ chức tại Tổ Đình Báo Quốc – Huế do Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết – Hội Chủ Hội Phật Giáo Việt Nam làm Đàn Đầu truyền giới. Cùng thọ giới với Ngài trong giới đàn này có các vị tôn túc sau này như: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Hòa Thượng Thích Trí Giác v.v…

Sau khi thọ đại giới, Ngài được Bổn Sư trạch cử làm Trưởng Pháp Tử, ban pháp hiệu Đạt Minh với bài kệ phú pháp:

Nguyên Phước tương thừa liễu đạo tông
Thiện lai Quang Thể khế tâm dung
Đạt Minh diệu chỉ siêu chơn tế
Tục diệm truyền đăng phổ chiếu đồng.

Nghĩa:

Nguyên Phước nối dòng rõ tâm tôn
Lành thay Quang Thể hợp tông môn
Đạt Minh diệu chỉ, siêu chân vọng
Truyền đăng diệu pháp chiếu càn khôn.

Năm Tân Mão (1951), Ngài được Giáo Hội Tăng Già Trung Phần cử trụ trì chùa Pháp Lâm – Đà Nẵng, đến năm Quý Tỵ (1953) Ngài trở ra lại Huế nhập Chúng, an cư tại chùa Báo Quốc.

Năm Giáp Ngọ (1954), Ngài được Bổn Sư cho phép trở vào Quảng Nam trụ tại chùa Linh Ứng – Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng cùng Chư Tăng tổ chức an cư kiết hạ cho Chư Tôn Đức ở Huế và Đà Nẵng. Đồng thời, hưởng ứng phong trào Chấn Hưng Phật Giáo, Ngài tổ chức các khóa học giáo lý tại gia và thành lập các Khuôn Hội Phật Giáo tại các vùng phụ cận. Cũng trong năm này, Ngài được mời làm thành viên Ban Hoằng Pháp của Hội Phật Học Trung Phần, đi thuyết giảng tại Trung Việt. Từ đó, dấu chân Ngài đi khắp các tỉnh miền Trung, tiếng pháp âm của Ngài lan tỏa đến mọi nơi trên quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng.

Năm Mậu Tuất (1958), Ngài cùng Chư Tôn Đức thành lập Phật Học Viện Phổ Đà. Đây là cơ sở đào tạo Tăng tài, cũng là trú xứ an cư, bố tát của Chư Tăng thành phố Đà Nẵng từ trước đến hiện nay.

Năm Kỷ Hợi (1959), Ngài khai sơn chùa Thọ Quang tại xã Hòa Thọ, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thành phố Đà Nẵng). Sau 3 năm kiến thiết thì chùa hoàn tất và lễ khánh thành được tổ chức vào năm Nhâm Dần (1962). Sau lễ khánh thành, do nhu cầu Phật sự, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Trung Phần cử đi trụ trì chùa tỉnh hội Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Năm Quý Mão (1963), nhằm phản đối chính sánh kỳ thị, đàn áp Phật Giáo của nhà đương cuộc; hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, Ngài lãnh đạo và hướng dẫn Tăng Ni, Tín Đồ Phật Giáo tỉnh Bình Thuận tham gia cuộc vận động cho 5 Nguyện Vọng của Phật Giáo Đồ; đòi hỏi tự do tín ngưỡng – bình đẳng tôn giáo trong tinh thần bất bạo động. Tại Phan Thiết, Ngài là vị lãnh đạo tinh thần tối cao, dấn thân cùng chư Tăng Ni, Phật Tử đấu tranh cho đến khi Pháp Nạn kết thúc vào ngày 1 tháng 11 năm 1963.

Từ năm 1966 đến năm 1975, Ngài được thỉnh cử làm Chánh Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thị xã Đà Nẵng (trong đó bao gồm các vùng thuộc địa dư hành chánh quận Hòa Vang của tỉnh Quảng Nam, phạm vi phụ cận thị xã Đà Nẵng).

Năm Đinh Mùi (1967), Ngài được cung thỉnh làm Giáo Thọ A-xà-lê tại Giới Đàn Sa Si, chùa Long Tuyền – Hội An.

Từ năm Mậu Thân (1968) đến năm Ất Mão (1975), chiến tranh leo thang cao độ, đồng bào từ các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi cùng đổ về Đà Nẵng tỵ nạn rất đông. Ngài đã cùng Chư Tôn Đức Tăng Ni hướng dẫn các tổ chức, hội đoàn Phật Giáo bằng mọi phương tiện tổ chức tiếp cư, tạm cư, cứu trợ vật chất cho đồng bào trong cơn khốn khó; Ngài cùng Chư Tôn Đức cũng thường xuyên thăm viếng, ủy lạo, an ủi để đồng bào được phần nào an ổn đời sống tinh thần.

Năm Canh Tuất (1970), Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất miền Vạn Hạnh tổ chức Đại Giới Đàn Vĩnh Gia tại chùa Phổ Đà – Đà Nẵng, Ngài được cung thỉnh làm Phó Chủ Đàn, Hòa Thượng Thích Tôn Thắng làm Chánh Chủ Đàn. Đây là một Đại Giới Đàn được tổ chức hết sức quy mô với sự hiện diện của các bậc cao tăng lãnh đạo Giáo Hội và sự tham dự của hàng ngàn Giới Tử xuất gia, tại gia toàn quốc.

Năm Ất Mão (1975), sau ngày hòa bình, Hòa Thượng vẫn tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo Giáo Hội, hướng dẫn tín đồ tu học.

Năm Bính Thìn (1976), do sự hợp nhất địa lý hành chánh, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thị xã Đà Nẵng sáp nhập lại lấy tên là tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng nên hệ thống Giáo Hội 3 tỉnh cũng hợp lại với tên gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng; Hòa Thượng được Tăng Ni, Phật Tử tín nhiệm cung thỉnh đảm nhiệm trọng trách Chánh Đại Diện Phật Giáo tỉnh.

Năm Canh Thân (1980), Ngài được cung thỉnh làm Đệ Thất Tôn Chứng của Đại Giới Đàn Thiện Hòa tổ chức tại chùa Ấn Quang – Sài Gòn.

Năm Tân Dậu (1981), Giáo Hội mới (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam) thành lập tại Hà Nội. Đến tháng 5 năm Nhâm Tuất (1982) Đại Hội Phật Giáo tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng cung thỉnh Hòa Thượng làm Trưởng Ban Trị Sự tỉnh và Ngài giữ chức vụ này liên tiếp 3 nhiệm kỳ: 1982-1987, 1987-1992, 1992-1997; đồng thời là Ủy Viên Hội Đồng Trị Sự Trung Ương GHPGVN.

Năm Giáp Tuất (1994), Ngài được cung thỉnh làm Giáo Thọ A-xà-lê tại Giới Đàn chùa Báo Quốc – Huế.

Năm Bính Tý (1996), Ngài được cung thỉnh làm Đàn Đầu cho Đại Giới Đàn Phước Huệ tại chùa Phổ Đà – Đà Nẵng.

Năm Đinh Sửu (1997), tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng lại tách rời ra hai đơn vị hành chánh: thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Đại Hội Phật Giáo thành phố Đà Nẵng ngày 20 tháng 4 năm 1997 suy cử Ngài làm Trưởng Ban Trị Sự thành phố Đà Nẵng. Ngài đảm nhiệm chức vụ này 2 nhiệm kỳ liền, từ 1997 đến 2007 và đồng thời là thành viên Hội Đồng Chứng Minh, Hội Đồng Trị Sự Trung Ương GHPGVN.

Năm Canh Ngọ (2000), Hòa Thượng Bổn Sư viên tịch, Ngài trở về Huế lo tang lễ báo đáp ơn giáo dưỡng của Ân Sư.

IV. NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI HÀNH HOẠT:

Từ năm Nhâm Ngọ (2002), sức khỏe của Hòa Thượng yếu dần nhưng Ngài vẫn gắng sức lo toan mọi Phật sự. Ưu tư lớn nhất của Ngài là ngôi chùa Tỉnh Hội (chùa Pháp Lâm) đang ngày càng xuống cấp mà chưa có điều kiện để trùng tu.

Đầu năm Ất Dậu (2005), biết trước sức khỏe không còn nhiều, Hòa Thượng trở về Huế lần cuối cùng nhân dịp húy kỵ Tổ Phước Hậu và húy kỵ Cố Hòa Thượng Trí Thủ; Ngài đi đảnh lễ, thăm viếng các Tổ đình, bảo tháp và Chư Tôn Thiền Đức Tăng-già.

Sau khi trở về Đà Nẵng, ngày 30 tháng 3 năm Ất Dậu (2005), Ngài lại trở bệnh nặng. Thời gian dần trôi, thân tứ đại của Hòa Thượng cũng phải theo năm tháng thuận theo luật vô thường, Ngài đã xả ly trần thế vào lúc 8 giờ ngày mùng 3 tháng 6 năm Ất Dậu (nhằm ngày 8 tháng 7 năm 2005 DL) tại chùa Thọ Quang – Đà Nẵng, trụ thế 84 năm với 57 hạ lạp.

Hòa Thượng là một trong những vị cao tăng của Phật Giáo Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng nói riêng trong thời hiện tại. Suốt cả cuộc đời hoằng pháp lợi sanh, phục vụ dân tộc và đạo pháp, Ngài luôn tận tụy với việc hoằng dương Chánh Pháp và đào tạo Tăng tài. Trong tất cả mọi Phật sự, Ngài không hề từ nan bất cứ việc nào, dù là trong những giai đoạn cam go, khó khăn nhất của đất nước và của Phật Giáo.

Ngoài ngôi chùa Thọ Quang do Ngài khai sơn, phần lớn các tự viện, các ngôi chùa cơ sở, các niệm Phật đường trong thành phố Đà Nẵng đều được kiến tạo dưới sự chứng minh của Ngài; các Phật sự tạo tượng, đúc chuông… từ thành thị đến thôn quê Ngài đều đến chú nguyện, khuyến tấn, khích lệ.

Hòa Thượng đã dày công xây dựng Phật Giáo tại Đà Nẵng và Quảng Nam ngày càng xương thịnh. Trên 50 năm hành đạo, mà trong đó có đến 30 năm đứng vào cương vị lãnh đạo Tăng Ni, Tín Đồ toàn tỉnh, tuy công việc đa đoan nhưng việc tiếp dẫn hậu côn vẫn luôn được Ngài ưu tiên xem trọng. Vì vậy, hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến hiện nay có trên 30 vị Tăng, Ni tiếp bước Bổn Sư, theo chí nguyện của Ngài hành đạo khắp mọi tỉnh, thành. Cuộc đời tu học và hành đạo của Ngài sẽ mãi rạng ngời trong những trang Phật sử Quảng Nam – Đà Nẵng./.


Bảo tháp Cố Hòa Thượng Thích Quang Thể tại chùa Thọ Quang – Đà Nẵng.

NGUỒN GỐC & XUẤT XỨ TÀI LIỆU:

– Kỷ yếu Tưởng Niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Quang Thể.
– Thư Viện Điện Tử Kinh Sách Phật Giáo (VNBET).
(Tại gia đệ tử Quảng Mẫn sưu tập và tổng hợp).





***

facebook-1


***



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2021(Xem: 4358)
Tán Thán Công Hạnh Tôn Sư Thành Kính Tưởng Niệm Cố Thượng Toạ thượng Chơn hạ Kiến. Kính nguyện Giác Linh Thượng Toạ Cao Đăng Phật Quốc. Vạn Đức già lam nhập đạo thiền Tinh cần sớm tối học kinh thiêng Đèn tâm chiếu sáng thơm hương giới Đuốc tuệ ngời soi toả đức nguyền Chơn Kiến suy tầm chân diện mục Ẩn Minh hiển thị diệu tâm nguyên Hoằng dương giáo pháp noi gương tổ Hoá độ sinh linh, độ chúng duyên.
14/06/2021(Xem: 8067)
Điện Thư Phân Ưu Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Thay mặt Tu Viện Quảng Đức & Trang Nhà Quảng Đức chúng con thành tâm phân ưu: Hòa Thượng Thích Bổn Đạt (Bổn Sư của TT Nguyên Mãn) Giáo Hội Canada cùng môn nhơn pháp quyến Chùa Long Hoa, Toronto, Canada. Nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Thượng Tọa Thích Nguyên Mãn Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kinh Tế-Tài Chánh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada Trụ Trì Chùa Long Hoa, Toronto, Canada Thuận thế vô thường viên tịch vào ngày 5/6/2021 (25/4/Tân Sửu) tại Canada Trụ thế : 75 năm ; 25 Hạ lạp CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC *** Nay Thành kính Phân Ưu Thượng Tọa Thích Tâm Phương Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Đại Đức Thích Đăng Từ Tri Sự Tu Viện Quảng Đức Nguyên Dũng Phạm Thanh Hùng Gia Trưởng Gia Đình Phật Tử Quảng Đức Quảng Tịnh Nguyễn Kim Phương Ban Quảng Đức Đạo Ca
14/06/2021(Xem: 9682)
Cáo Bạch Tang Lễ Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Tâm (vừa viên tịch tại Chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc)
12/06/2021(Xem: 14804)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
05/06/2021(Xem: 4749)
Tôi gặp Đệ Quang Sơn lúc đang còn là chú Sa Di, nhân duyên ấy là từ nguồn Facebook, nên Huynh đệ có những lần đàm thoại. Xa vắng một khoảng thời gian Đệ Quang Sơn phải chuyên tâm Ôn Luật, để xứng danh là Hàng thích tử của Như Lai, dự vào ngôi nhà Tăng Bảo. Mãi đến năm 2018, tôi tình cờ gặp lại trong tang lễ của bố chị Thanh Lan ở phố cổ Hà Nội, lúc bấy giờ Huynh đệ thêm nhiều câu chuyện. Hôm ấy, vào mùa Hạ tháng nhuận năm Kỷ Hợi, huynh đệ về thăm chùa Kim Lôi- Thôn An Tiến,Xã An Ninh, Huyện Bình Lục- Tỉnh Hà Nam. Tôi lưu trú một đêm, nên huynh đệ đã tâm sự. Đệ bảo rằng:
29/05/2021(Xem: 3940)
Đệ Tử chúng con, hàng hậu học Tỳ Kheo Thích Minh Thế- Huế thuộc Môn Phong Tổ Đình Từ Hiếu, được nhân duyên diện kiến Ngài 3 lần, một lần Chùa Bát Nhã, Lúc ở Chùa Hải Quang, trong mùa Huý Kỵ Ngài Nhật Lệ. Năm 2007-2008,2009,2010. Hay tại Chùa Quảng Hương Già Lam, nhân Huý kỵ Tôn Sư Thượng Trí Hạ Thủ- 2012-2014, tất cả đều ở Sài Gòn. Diện kiến Ngài là một lần học được tâm hạnh Khiêm cung, luôn lấy pháp Mật chú mà gia trì. Lấy giới luật mà dụng tu, lấy công phu trì niệm Pháp Hoa, Sám Lễ, Trì Chú Niệm Phật A Di Đà, để Huân nhiên chủng tánh. Diện kiến Ngài lúc nào cũng có chiếc gậy bên mình, vì đôi chân có phần chưa tốt, nên từ đó Diện kiến Ngài là đều hi hữu. Ngài từng dạy tại Trường Bồ Đề, nơi trú xứ Buôn Ma Thuột, giữ những lời dạy sâu sắc, tiếp nối truyền thừa lưu lại đàn hậu tấn về sau, các vị được thọ ân từ Ngài, giờ này cũng chấp cánh bay xa bên xứ ngoài, hay trong xứ, làm niềm vui an tịnh cho chính mình ở Bồ đề Tại xứ Buôn Mê. Ngài từng ngồi hành pháp
25/05/2021(Xem: 9117)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
22/05/2021(Xem: 6360)
Trưởng lão Hòa thượng tân viên tịch thế danh Nguyễn Thanh Bình, sinh năm Tân Mùi (1931) tại thôn Mỹ Duyệt Hạ, xã Thanh Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Như Hưng, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Huấn, Trưởng lão Hòa thượng là con thứ hai trong bốn anh em (hai trai hai gái). Lúc lên 11 tuổi (1942), được sự cho phép của song thân, Hòa thượng đến chùa Đặng Lộc đảnh lễ ngài Hòa thượng Thích Định Tuệ xin được xuất gia và được bổn sư ban cho pháp danh Lệ Chân, pháp tự Thiện Hạnh.
16/05/2021(Xem: 12054)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
30/04/2021(Xem: 6888)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]