Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Lưu Thanh

29/06/202016:12(Xem: 4892)
Tiểu sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Lưu Thanh

ht thich luu thanh 2
TIỂU SỬ
CỐ TRƯỞNG LÃO HOÀ THƯỢNG
Huý thượng NGUYÊN hạ TỊNH, hiệu LƯU THANH
Giáo Phẩm Chứng Minh Môn Phái Tây Thiên
Phương Trượng Tổ Đình Trúc Lâm –Huế

I. THÂN THẾ
Trưởng lão Hoà thượng thế danh Nguyễn Ngọc Khê, Pháp danh Nguyên Tịnh, Pháp tự Thích Lưu Thanh, hiệu Ngân Bình.
Hoà thượng sinh ngày mồng 3 tháng 11 năm Tân Tỵ, Chánh quán tại làng Cư Chánh, xã Thượng Bằng, quận Nam Hoà, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thôn Cư Chánh, xã Thuỷ Bằng, Thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Thân sinh là Cụ ông Nguyễn Ngọc Chút, Pháp danh Nguyên Đại, Thân mẫu là Cụ bà Hồ Thị Mài, Pháp danh Nguyên Khiết. Cố Hoà thượng là con thứ 4 trong gia đình gồm 6 trai và 1 gái. Chị cả và anh trai thứ 2 qua đời rất sớm. Người em trai thứ 5 của Cố Hoà thượng cũng được nhân duyên xuất gia đầu Phật tức Pháp đệ Thích Tín Đạo. Hoà thượng Thích Tín Đạo cũng đã viên tịch.

II. THỜI GIAN XUẤT GIA HỌC ĐẠO
 Hoà thượng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống kính tin Tam Bảo và nhờ có sẵn hạt giống xuất trần từ nhiều kiếp cho nên Hoà thượng đã được kết duyên với chốn Thiền môn ngày từ thuở nhỏ. Vì vậy, Hoà thượng đã sớm nhận thức được cuộc đời huyễn mộng, thế sự phù vân, chỉ có đạo giải thoát mới là cứu cánh phải nương về. Nhờ được túc duyên gần gũi học tập giáo lý với các bậc Cao Tăng, đặc biệt là Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Đức Tâm tận tình chỉ dạy nên Cố Hoà thượng lại càng thâm nhập giáo lý vô thường của Phật đà.

 Từ đó hoa Thiền chớm nở, Hượng đạo càng thơm, Hoà thượng thường vào Tổ đình Trúc Lâm lễ Phật, thân cận với chư Tăng bổn tự.
 Năm 1960, với sự động viên khuyến tấn của quý Thầy, nhất là sự thương mến, hướng dẫn của Cố Hoà thượng Thích Lưu Đoan. Năm 19 tuổi, Hoà thượng đã xin phép song thân xuất gia đầu Phật với Đức Cố Đại Lão Hoà thượng huý thượng Tâm hạ Hương, Đạo hiệu Thích Mật Hiển – Nguyên Phó Pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương GHPGVN, Trưởng Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên – Huế, Trú trì Tổ đình Trúc Lâm thuộc thôn Thượng Một, xã Thuỷ Xuân, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là Phường Thuỷ Xuân, TP Huế).

Kể từ buổi sơ tâm xuất gia hướng Phật, Hoà thượng nổ lực hôm sớm kệ Kinh, siêng năng học đạo, sau 3 tháng đã học thuộc hai thời công phu và bốn cuốn Luật tiểu. Sau 2 năm cần mẫn “phụng Phật hầu Thầy” năm Nhâm Dần (1962), Ngài Đại lão Hoà thượng Bổn sư thấy Hoà thượng là người đệ tử siêng năng chất phát, tính tình hoà nhã, thiết tha cầu đạo, Hoà thượng đã được Bổn sư làm lễ thế phát và trao truyền Sa-di thập giới với Pháp danh Nguyên Tịnh, Pháp tự Lưu Thanh, thuộc đời thứ 44 dòng Thiền Lâm Tế và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán  - Nam Hà.

Hoà thượng với tâm nguyện: “Bỏ ngoài ngàn dặm lòng tham dục, để lẽ huyền vi mãi ở trong”, với tinh thần cần mẫn tiến tu, oai nghi đĩnh đạt xứng đáng bậc pháp khí đại thừa, Hoà thượng đã được Bổn sư cho phép đăng đàn thọ  Tỳ-kheo Bồ tát giới tại Đại giới đàn Vạn Hạnh tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu năm Ất Tỵ (1965) do Đức Đệ nhị Tăng Thống Đại lão Hoà thượng Thích Giác Nhiên làm Đàn đầu Hoà thượng và Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Mật Nguyện – Chánh Đại diện Miền Vạn Hạnh và tỉnh Thừa Thiên làm Chánh Chủ Đàn.

Gần cuối năm Ất Tỵ (1965), Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Chánh Trực thành lập phái đoàn Sứ giả Như Lai đi về các huyện để thành lập Khuôn hội và diễn giảng Phật pháp, Hoà thượng là 1 trong 20 vị của phái đoàn.

Năm Đinh Mùi (1967), Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Mật Nguyện cùng với Chư vị Tôn túc trong Giáo hội Thừa Thiên khai giảng lớp học Cao đẳng Phật học Liễu Quán nội trú trong 4 năm tại chùa Linh Quang. Chính trong lớp học này, Cố Hoà thượng và các vị Tăng sinh đã được sự ân cần dạy bảo truyền trao Kinh, Luật, Luận từ các bậc danh Tăng thạc đức như: Đức Cố Đại lão Hoà thượng Linh Mụ, Đức Cố Đại lão Hoà thượng Trúc Lâm, Đức Cố Đại lão Hoà thượng Già Lam, Đức Cố Trưởng lão Hoà thượng Linh Quang, Đức Cố Đại lão Hoà thượng Từ Đàm, Cố Trưởng lão Hoà thượng Pháp Hải,…
Giữa năm Kỷ Mùi (1969), Cố Hoà thượng được Bổn sư cho phép vào miền Nam theo học lớp bồi dưỡng Sứ giả Như lai mà Cố Hoà thượng là 1 trong 15 vị được Giáo hội Thừa Thiên tuyển chọn.

III. Quá trình hành đạo
Sau những năm tháng nương nhờ ơn giáo dưỡng của đức Thầy cao cả, Hoà thượng tự nghĩ “Một ngày hội ngộ là duyên, ơn thầy giáo dưỡng suốt đời lo toan”. Cho nên sau những ngày phát nguyện tu học Chánh pháp, Hoà thượng càng thấm nhuần sâu sắc giáo lý nhiệm mầu vô thượng của Phật Pháp từ Ngài Bổn sư dạy bảo và các bậc Tôn túc trao truyền. Hoà thượng đã tự nhận thấy trọng trách vô cùng to lớn của một đệ tử xuất gia “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”, Hoà thượng luôn canh cánh trong lòng sự nghiệp “Hoằng dương Chánh Pháp, lợi lạc quần sanh”.
Cuối năm 1969, sau khi theo học lớp bồi dưỡng giảng sư, Hoà thượng đã được cử đi thuyết giảng tại các vùng thuộc Cao Nguyên Trung Phần như: Gia Lai, Phúc Bổn, Phong Dinh,…

Năm 1970, Hoà thượng được cử về  tỉnh Quảng Trị đảm nhận vai trò Giảng sư hoằng pháp phụ tá Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Chánh Trực lúc đó là Chánh đại diện Tỉnh Giáo hội Phật giáo Quảng Trị.

Từ năm 1972 – 1992, Hoà thượng tiếp tục làm giảng dạy Phật pháp tại một số lớp học nội điển, các Đạo tràng tu học tại các tỉnh miền Trung.
Ngày Rằm tháng Tư năm Nhâm Thân, mùa Phật đản PL.2536 (1992) Đức Cố Đại Lão Hoà thượng Bổn sư hoá duyên ký tất, đoan ngự liên đài, Hoà thượng trở về chốn Tổ cư tang và đến năm 1994 thì Đại trùng tu Tổ đình Trúc Lâm.

Ngoài ra, Cố Hoà thượng đã có nhiều lần đi chiêm bái các Phật tích ở nước ngoài như: Ấn Độ, Trung Quốc,… và tham dự các khoá lễ Cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì đại nghĩa dân tộc được tổ chức tại Liên Bang Nga.

Vào ngày Mùng 3 tháng 10 năm Mậu Tuất [nhằm 09/11/2018], Nhân dịp Lễ kỷ niệm huý nhật lần thứ 82 (1936-2018) Đức Tổ sư Khai sơn Tổ đình Trúc Lâm, Tông môn Pháp phái Trúc Lâm đã tổ chức phiên họp và hoàn toàn nhất trí cung thỉnh Hoà thượng lên ngôi vị Phương Trượng Tổ đình Trúc Lâm và cung cử Hoà thượng Thích Lưu Hoà lên ngôi vị trú trì Tổ đình Trúc Lâm, để làm bậc thầy hướng dẫn Thiền quy, là bậc tùng lâm cho đàn hậu học nương theo Đạo phong của chư Tổ, duy trì phát triển nghiệp Tổ. Kể từ đó, nhị vị Hoà thượng đã đồng tâm hiệp lực để hướng dẫn Tăng chúng tu học và lo toan mọi Phật sự trong chốn Tổ ngày càng xương minh phát triển.

IV. NHỮNG THÁNG NGÀY CUỐI CÙNG
Trong dịp đón Giao thừa mừng Xuân Canh Tý (2020), Đại chúng Trúc Lâm đã vân tập Thiền đường để đảnh lễ khánh tuế lên nhị vị Hoà thượng, trước giờ phút đầu năm, Hoà thượng đã ân cần huấn thị rằng: “Mỗi năm trôi qua, mỗi người được thêm một tuổi, cứ như thế mà cuộc đời chúng ta sẽ tàn phai theo năm tháng, là hàng đệ tử của Đức Phật chúng ta phải hiểu rõ điều này để nỗ lực tinh tấn trên bước đường học đạo, hành đạo mới mong có ngày đạt đạo. Các anh em trong đại chúng phải luôn luôn thực hiện tinh thần lục hoà cộng trụ, biết đoàn kết hoà hợp, thương yêu nhau. Tôi mong những vị lớn cố gắng dìu dắt mấy anh em trẻ ở sau. Vì mình ngoài tình thầy trò ra, tình đồng một Bổn sư ra thì còn có tình ‘Linh Sơn cốt nhục’ nữa nên các anh em cố gắng tu tập, sống với nhau cho thật tình, thật lòng. Mọi Phật sự dầu của Giáo hội hay tại Môn phái, Tổ đình anh em hãy đem nhiệt tâm, thiện ý mà lo toan, phục vụ, phải biết giữ trọn đức tánh khiêm cung, thừa thượng tiếp hạ, có như thế mới mong thành tựu trên bước đường tu, lợi Đạo ích đời.”
Trong lễ kỷ niệm huý nhật Đức Cố Đại lão Hoà thượng Bổn sư vào ngày 14 tháng Tư năm Canh Tý mùa Phật đản PL.2564, Hoà thượng vẫn còn khoẻ mạnh cung tiếp chư vị Tôn túc đến dự lễ và trò chuyện rất hoan hỷ thân mật. Sau đó, Hoà thượng đã đi viếng mộ phần song thân phụ mẫu, dâng hương tưởng niệm tại Từ đường gia tộc. Đến vấn an các bậc Tôn túc Trưởng lão tại một số Tổ đình tự viện, khuyến tấn đàn hậu học và dặn dò một số công việc trong chương trình hậu sự của Cố Hoà thượng.
Thế rồi: “Sinh như thể đắp chăn bông
 Tử như cởi áo hạ nồng khác chi
 Xưa nay các pháp hữu vi
 Không sao tránh khỏi biệt ly vô thường.”

Dòng thời gian dần trôi, nhật nguyệt đắp đổi, bước chân Hoà thượng ngày càng mệt mỏi, thân tứ đại hiện lý vô thường.
Sau thời gian lâm bệnh, mặc dầu đã được sự tận tình lo lắng săn sóc của Hoà thượng Trú trì và Tăng chúng Tổ đình Trúc Lâm cũng như sự nhiệt tâm chữa trị của quý vị Y Bác sĩ nhưng do tuổi cao sức yếu, Hoà thượng đã thuận thế vô thường thâu thần viên tịch đúng vào lúc 11giờ 45 phút ngày 28 Tháng Tư Nhuận năm Canh Tý (nhằm ngày 19.06.2020), trong tiếng trợ niệm của Chư tôn Thiền đức Tăng ni trong Môn phái Tây Thiên, chư Tăng tại Tổ đình Trúc Lâm, môn đồ thế quyến và thiện nam tín nữ Phật tử, trụ thế 80 năm, 55 Hạ lạp.
“Ôi thôi! Trưa nay cánh hạc lưng trời
Đón người sứ giả lên đường hồi hương
Tổ đình chuông điểm sầu vương
Môn đồ Pháp quyến hoa hương lệ thầm.”

Thế là từ đây Cố Hoà thượng đã từ bỏ huyễn thân trong cảnh hồng trần, đi vào cõi Tây phương Tịnh Độ bất diệt bất sanh Nê Hoàn nhập diệu. Cố Hoà thượng đã đi thật xa, nhẹ gót hài về nơi vô trụ. Tổ đình Trúc Lâm Đại Thánh ngày ngày chuông mõ sớm chiều vẫn còn đó, chốn Tổ Tây Thiên, Đức liệt Tổ rạng ngời ý đạo vẫn còn đây, đồng môn Pháp lữ, đệ huynh Pháp phái, môn nhơn thế quyến đang quy tụ về đạo tràng thế mà Cố Hoà thượng đã từ giã tất cả, để ra đi về miền Tịch tịnh. Hơn 60 năm tu tập hành Đạo, Hoà thượng suốt một đời dấn thân cho sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, giáo dục cho hậu thế không ngưng nghỉ, với đức hạnh khiêm cung, Ngài luôn hoà nhã gần gũi với Tăng ni Phật tử. Hoà thượng viên tịch, Phật giáo nước nhà mất đi một bậc tùng lâm. Ngôi Tổ đình Trúc Lâm mất đi một người Pháp huynh, một bậc Giáo thọ ân cần và Tăng ni Phật tử mất đi một bậc Thầy khả kính. Bảo Tháp của Trưởng lão Hoà thượng được tôn trí trong khuôn viên Tổ đình Trúc Lâm Huế./.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2010(Xem: 7050)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6650)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6946)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 1011)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33985)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4762)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4687)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4653)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4599)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4936)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567