Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Minh Cảnh (1937 - 2018)

20/10/201920:48(Xem: 3613)
Hòa Thượng Thích Minh Cảnh (1937 - 2018)

HT Thich Minh Canh_1937_2018
Hòa Thượng Thích Minh Cảnh 
   (1937-2018) 

Hòa thượng đạo hiệu Thích Minh Cảnh, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40. Hòa thượng thế danh Nguyễn Hữu Danh, sinh ngày 12-11-Đinh Sửu (1937) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh (Đồng Tháp). 

Hòa thượng xuất thân trong gia đình kính tin Tam bảo, thân phụ là cụ ông Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Hòa thượng là người con út, là con thứ 9 (miền Nam gọi là thứ 10) trong gia đình có 9 anh chị em, với bốn người anh, chị xuất gia tu học.

Vốn sanh trong gia đình trung lưu phúc hậu, nhiều đời kính tin Tam bảo, sâu trồng ruộng phước Tăng già, đặc biệt là có bốn anh chị xuất gia nơi cửa Phật, vì vậy Hòa thượng đã bén duyên với cửa Phật khi tuổi còn rất nhỏ. Năm 1945, Hòa thượng được HT.Huệ Hưng dẫn đến chùa Long An, ở Sa Đéc thọ học với HT.Hành Trụ, được ban pháp danh Minh Cảnh. 

Năm 1947, Hòa thượng thọ giới Sa-di tại chùa Kim Huê (Sa Đéc) với HT.Chánh Quả. Đầu năm 1948, Hòa thượng nhập học tại trường Liên Hải Phật học đường đặt tại chùa Vạn Phước, Bình Trị Đông (nay là quận Tân Bình). Tại ngôi trường Phật học này, Hòa thượng được cố HT.Thích Trí Tịnh chính thức nhận làm đệ tử và học ở đây cho đến năm 1950. Năm 1951, Hòa thượng theo hầu HT.Thích Trí Tịnh tại Sơn Linh cổ tự (Vũng Tàu). 

Năm 1953-1954, Hòa thượng tu học tại Phật học đường Nam Việt đặt tại chùa Ấn Quang (quận 10, Sài Gòn). Nơi đây, Hòa thượng được gần gũi và học tập với HT.Thích Nhất Hạnh.

Năm 1954-1959, sau khi khóa học tại Ấn Quang kết thúc, Hòa thượng cùng các huynh đệ đồng môn tiếp tục con đường thế học còn dang dở do thời cuộc. Mùa hè năm 1960, Hòa thượng khăn gói lên tàu ra đất kinh kỳ, ở tại chùa Từ Hiếu để đi học Trường Quốc Học và học chữ Hán với ôn Quy Thiện (ngài Chân Đạo Chánh Thống). 

Năm 1960-1961, từ Huế trở về, Hòa thượng tu học tại chùa Tập Thành với thầy Cả, thân mẫu nay đã xuất gia và những anh chị em xuất gia trong gia đình. Năm 1961-1965, Hòa thượng trở lại con đường học thế học tại Trường Chi Lăng, Trường Phan Sào Nam (Sài Gòn). Sau đó, Hòa thượng học tiếp cho đến tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa Sài Gòn. 

Năm 1965-1968, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Hòa thượng được cử xuống dạy học tại Trường Thoại Ngọc Hầu, ở Long Xuyên. Năm 1968-1975, Hòa thượng dạy học và làm việc tại Đại học Vạn Hạnh (Lê Văn Sỹ, Sài Gòn).

Năm 1969, Hòa thượng thọ giới Tỳ-kheo tại chùa Huệ Nghiêm, do HT.Hải Tràng làm Hòa thượng đàn đầu, HT.Thích Trí Tịnh làm Tuyên luật sư, HT.Hành Trụ làm Yết-ma A-xà-lê, HT.Huệ Hưng làm Giáo thọ A-xà-lê. 

Năm 1970, Hòa thượng tu học tại tu viện Huệ Quang cho đến nay. Năm 1971-1974, tuy ở tại tu viện Huệ Quang, nhưng Hòa thượng làm Hiệu trưởng Trường Bồ Đề (Long Khánh). Năm 1980, được sự ủy thác của cố HT.Huệ Hưng, Hòa thượng kế thế trụ trì tu viện Huệ Quang cho đến ngày nay. 

Năm 1984-1988 và 2002-2006, Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Chánh Đại diện Phật giáo quận Tân Bình, sáng lập Lớp Sơ cấp Phật học quận Tân Bình.

Năm 1984-1991, Hòa thượng làm giáo thọ Trường Cao cấp Phật học khóa I và II. Năm 1991, Hòa thượng khai giảng lớp Hán - Nôm tại Trường Đại học Doanh thương Trí Dũng.

Năm 1992, Hòa thượng đã khai giảng lớp phiên dịch Hán - Nôm Huệ Quang khóa I tại chính ngôi chùa mình đang trụ trì. Ba năm sau, việc giáo dục lại gián đoạn, Hòa thượng cùng các Tăng Ni khóa này đã bắt tay vào phiên dịch bộ Từ điển Phật học Huệ Quang, kéo dài suốt 10 năm. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng phiên dịch và cho đăng trên Tuần báo Giác Ngộ bộ truyện Tế Điên hòa thượng với bút hiệu Đồ Khùng. Sau này được in lại thành sách gồm 4 tập.

Đến năm 1999, nhân duyên hội đủ, Hòa thượng tiếp tục khai giảng lớp phiên dịch Hán - Nôm Huệ Quang và duy trì đến nay đã được 15 khóa học. 

Năm 2007, Hòa thượng được đề cử làm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, thành lập Ban Dịch thuật Hán - Nôm Huệ Quang (năm 2012 đổi thành Trung tâm Dịch thuật Hán - Nôm Huệ Quang), trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đặt tại tu viện Huệ Quang với hơn 20 thành viên hoạt động cho đến hôm nay với nhiều tác phẩm được phiên dịch đã được in như: Phật Tổ đạo ảnh, kinh Xuất diệu, Giác hổ tập, kinh Phật thuyết chúng hứa Ma-ha-đế, kinh Pháp cú thí dụ, kinh Đại thừa lý thú lục Bát-nhã Ba-la-mật, kinh Đại Tát-già-ni-kiền tử sở thuyết, Truyện nhân duyên Phú pháp tạng, Chặng đường tham học, Lời trong cõi mộng, Tham cứu Tịnh độ…, và còn nhiều tác phẩm đang biên tập và đang dịch dang dở. Những thành tựu này đã phần nào đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Tăng tài cũng như hoằng pháp mà Hòa thượng luôn thao thức. 

Năm 2012-2017, Hòa thượng giữ chức vụ Phó Viện trưởng kiêm Giám đốc Trung tâm Dịch thuật Hán - Nôm Huệ Quang trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Phiên dịch và Ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam.

Năm 2002-2012, được suy tôn Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN quận Tân Bình và sau đó là Cố vấn chứng minh Ban Trị sự GHPGVN quận Tân Phú cho đến ngày viên tịch.

Năm 2017, Hòa thượng là thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Trong những năm sau này, Hòa thượng từng làm Yết-ma các Đại giới đàn tại chùa Phổ Quang (TP.HCM), Đại Tòng Lâm (BR - VT). Đặc biệt là chứng minh nhiều giới đàn do Tăng thân Làng Mai tổ chức tại Pháp, Thái Lan.

Mùa an cư năm Mậu Tuất, bệnh của Hòa thượng trở nặng. Tuy được huynh đệ hết lòng chăm sóc, chạy chữa nhưng Hòa thượng đã thuận lý vô thường thu thần thị tịch. Trước đó, khuya ngày mồng 3-9-Mậu Tuất, Hòa thượng hai lần báo với thị giả: “Tôi sắp ra đi!”. Lúc 13 giờ 35 phút, khi hàng đệ tử quỳ quanh hộ niệm, Hòa thượng chắp tay chào mọi người rồi trút hơi thở cuối cùng, trên môi thoảng một nụ cười hoan hỷ, nhẹ nhàng như đang đi vào giấc ngủ, thượng thọ 82 tuổi, 50 hạ lạp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2013(Xem: 6722)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5382)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4876)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5275)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6102)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5942)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9336)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5005)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5306)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
21/09/2012(Xem: 9258)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Thân hình Ngài có những đặc điểm khác thường, nhất là có màu vàng, nên được vua cha đặt cho biệt hiệu là Phật kim.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567