Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hoàn Quan (1928 - 2005)

20/10/201920:20(Xem: 3422)
Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hoàn Quan (1928 - 2005)
HT. Thich Hoan Quan

CỐ ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH HOÀN QUAN (1928-2005)

Khai Sơn Chùa Khánh Vân, Quận 11, Sài Gòn



I-THÂN THẾ :

Hoà thượng  Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN.

Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ  Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.

II-XUẤT GIA HỌC ĐẠO :

Cố Đại lão Hoà thượng vốn sinh ra trong gia đình có truyền thống Phật giáo lâu đời. Tổ khảo của Ngài là Đệ ngũ tổ, Tổ đình Sắc Tứ Thiên Ấn, nơi đây là đệ nhất danh lam tỉnh Quảng Ngãi. Ngài Đệ Ngũ tổ Thiên Ấn hiệu là Hoằng Phúc, khai sơn Tổ đình Sắc Tứ Quang Lộc. Do vậy, lúc 8 tuổi Ngài về Tổ đình Thiên Ấn  ở với Hoà thượng Diệu Quang. Đệ lục tổ Tổ đình Thiên Ấn  là Cậu ruột, được Ngài Lục tổ Diệu Quang nuôi dạy 2 năm, nhưng chưa thế phát Quy y, vì lúc đó Ngài còn nhỏ.

Trong dịp Hoà thượng Khánh Ngọc từ miền Nam về thăm quê hương Quảng Ngãi, thân sinh của Ngài gởi cho Hoà thượng Khánh Ngọc nhờ dẫn vào Nam gởi cho Sư cụ Khánh Anh, hiện đang Trụ trì Tổ đình Phước Hậu, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, nhưng vào đến nơi thì Hoà thượng Khánh Ngọc giữ ở với Hoà thượng tại Chùa Long Phước- Cái Vồn. Rồi ở với Hoà thượng Huyền Khải ở Cái Răng- Cần Thơ. Vì vậy mà Ngài chưa được đến diện kiến và thọ học với Sư Cụ Khánh Anh!

Trong thời gian ở 2 ngôi Chùa trên, Hoà thượng phải chấp lao phục dịch rất cực nhọc, lại không được học hành. Trong khi đó thì Hoà thượng có chí muốn học hành để trở thành người hiểu biết. Do vậy, vào một đêm đen Hoà thượng đã bỏ trốn, Ngài tìm đến Sư Cụ Khánh Anh hiện đang Trụ trì tổ đình Phước Hậu, huyện Trà Ôn. Sau khi trình bày tự sự và thổ lộ ý chí muốn xuất gia tu học. Hoà thượng được Tổ chấp thuận và thế phát xuất gia, ban Pháp danh là Như Cụ Thiện, năm ấy Ngài tròn 15 tuổi.

Dù đã là 15 tuổi, nhưng vẫn chưa được học hành. Do đó, sau khi xuất gia Hoà thượng được tổ Khánh Anh hết lòng dạy dỗ và Cố Hoà thượng Thiện Hoa là Sư huynh đã dạy Việt văn cho Hoà thượng. Khi Hoà thượng đọc được chữ Việt thì rất mừng. Và từ đó Hoà thượng theo học hai chương trình.  Nội điển và Ngoại điển.

Năm 1942 Tổ Khánh Anh cho Ngài thọ giới Sa Di và cho Pháp tự là Giải Toàn Năng.

Năm 1946 Sư cụ đưa Hoà Thượng lên Sài gòn ở Chùa Ứng Quang, theo học chương trình Sơ đẳng Phật học.

Năm 1950, khi Phật Học Đường Nam Việt- Chùa Ấn Quang thành lập, do Hoà thượng Thiện Hoà làm Giám đốc. Hoà thượng đã cùng quý Hoà thượng Thích Huyền Vy, Hoà thượng Thích Từ Thông, Hoà thượng Thích Thanh Từ, Hoà thượng Thích Quảng Long, Hoà thượng Thích Minh Cảnh.v.v…theo học chương trình Trung đẳng và Cao đẳng Phật học.

 Năm 1955 Hoà thượng thọ Cụ túc giới ở Đại giới đàn được tổ chức tại Tổ đình Ấn Quang, do Hoà thượng Thích Đôn Hậu làm đàn đầu, với Pháp hiệu là Thích Hoàn Quan.

Song song với chương trình Phật học, Hoà thượng còn theo học chương trình thế học tại trường Văn Lang – Sài gòn cho đến khi tốt nghiệp Tú tài.

III-  HÀNH ĐẠO :

Khi tốt nghiệp Cao đẳng và Tú tài toàn phần, thì sau đó Ngài đi dạy các Phật học Viện, đồng thời Ngài là Giáo thọ sư Phật Học Đường Nam Việt. Năm 1960 Ngài làm  Đốc Giáo trường Phật Học Phước Hoà- Trà Vinh. Từ năm 1964 đến năm 1975, Hoà thượng là Giáo thọ sư của các trường Phật học như: Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Huỳnh Kim, Hải Tràng, Dược Sư, Từ Thiền, Bồ Đề Lan Nhã.v.v… những Tăng Ni sinh thọ học với Hòa thượng thuở ấy, hiện nay hầu hết là các bậc tôn túc ở các Tự-Viện, và đã là Trụ trì, Giảng sư, Giáo thọ sư các trường Phật học, và có người hiện đã lên hàng Giáo phẩm, đang giữ chức vụ quan trọng trong Giáo hội các tỉnh thành, và các ngành các cấp TW giáo hội.

 SỰ NGHIỆP PHIÊN DỊCH :

Với nhân duyên đồng chơn nhập đạo, sớm gặp được Minh sư, và sẳn có chủng tánh Đại thừa, nên Ngài đã có một thứ Trí tuệ hơn người đang tiềm ẩn trong  bậc chân tu, vốn đã có hoài bảo “Thượng cầu Phật đạo- Hạ hóa chúng sinh”, và nhất là luôn nghĩ đến thế hệ Tăng Ni mai hậu.

Vì thế cho nên, ngoài việc giảng dạy tại các trường Phật Học Viện, Ngài còn trước tác, phiên dịch và biên soạn những bổn Kinh- Luật- Luận rất có giá trị để lại cho hậu thế như sau:

1-    Về Kinh Ngài đã Dịch các bộ Kinh như: Thập Thiện Nghiệp Đạo, Bát Đại Nhơn Giác, Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Di Giáo, kinh Viên Giác…

2-    Về Luật Dịch bộ Luật Trường Hàng gồm Tỳ Ni, Sa Di, Oai Nghi, Cảnh Sách, thành văn vần rất hay, làm cho hàng hậu học dể nhớ.

3-    Về Luận Ngài đã dịch các bộ như: Tu Tập Chỉ Quán Toạ Thiền Pháp Yếu, Hiển Mật Viên Thông Tâm Yếu Thành Phật, Tam Thập Tụng luận…

4-    Về Hán Văn : Ngài đã soạn các bộ như: Giáo trình Hán Văn- Văn Phạm cương yếu, Tân Học Quốc Văn… Các bộ Giáo trình Hán Văn nầy Ngài đã biên soạn dạy cho Tăng Ni tại các Phật Học Viện, phần nầy vẫn còn là “Bản thảo” chưa in ấn lưu hành.

5-    Về Nghi Lễ Ngài đã biên soạn tập “Nghi Lễ” rất công phu và chi tiết, rất hữu ích cho lớp Tăng Ni trẻ cũng như rất thuận tiện cho những ai có nhu cầu trong việc ứng phó đạo tràng, cũng có thể lấy đây làm phương tiện để truyền bá Phật pháp.

Ngoài những bộ Kinh – Luật- Luận và các Giáo trình đã được phiên dịch và biên soạn  như đã nêu trên thật vô cùng quý giá để lại cho đàn hậu tấn, Ngài còn mong muốn làm sao cho Tăng Ni trẻ sau nầy có đủ tư liệu về Tam tạng Thánh điển bằng Việt ngữ, để nương theo đó tu học. Những tác phẩm của Hòa thượng đã được Ban Văn Hóa Thành hội Phật giáo tổng họp lại thành bộ Phật Tổ Ngũ Kinh, đã được xuất bản và tái bản nhiều lần. Hiện nay chư Tăng Ni và Phật tử trong nước cũng như nước ngoài, xem Bộ Kinh nầy như bộ sách gối đầu giường trong việc tu và học.

SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG NGÔI CHÙA :

Vào năm 1964 Ngài đã Khai sơn Chùa Khánh Vân với biết bao nhiêu công sức và muôn vàn khó khăn gian khổ, vì nơi đây trước kia là một vũng sình. Ngôi chùa Khánh Vân lúc ấy đựơc che tạm lá và tôn, phên tre vách lá, Thầy trò ẩn dật nương náu tu hành. Năm 1968 Chùa bị hoả hoạn chiến tranh. Rồi từ đó, Ngài vừa đi dạy vừa nổ lực cùng với quý Thầy và Phật tử góp công sức khai móng để làm lại Ngôi chùa và đã đổ được một tầng làm Chánh Điện tạm, nay là Giảng đường của chùa Khánh Vân.

Do bận giảng dạy và Phiên dịch Kinh- Luật- Luận, cũng như chưa đủ nhân duyên để trùng tu ngôi chùa, nên chùa Khánh Vân vẫn là Ngôi Chánh Điện tạm. Cho đến ngày 06 – 02 – 1994 ( năm Giáp Tuất ) Nhân duyên đã hội đủ, Ngài đã cho khởi công đặt đá Đại Trùng tu Ngôi chùa. Do xuất thân từ  Thiên Ấn - Quang Lộc tổ đình, nên khi Ngài Khánh thành ngôi Chùa Khánh Vân, được Chư sơn Thiền đức tỉnh Quảng Ngãi kính tặng bức Hoành phi sơn son thép vàng, trong đó đặc biệt có hai câu: “Thiên Ấn kế thừa hoằng pháp nghiệp - Khánh Vân thiết lập độ sanh cơ.”

Khi công việc Phật sự Đại trùng tu ngôi Bảo điện được hoàn thành, thì cũng chính là lúc sức khoẻ của Ngài bắt đầu yếu đi. Chẳng những thế, Ngài lại lo lắng khi nghĩ đến việc phải tìm người lo cho ngôi Tam bảo, gánh lấy trách nhiệm Trụ pháp vương gia, trì Như lai tạng để truyền trì mạng mạch, tục diệm truyền đăng, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, làm cho Tam bảo được xán lạn huy hoàng. Vì thế, trong thời gian đó Ngài đã mời Thượng toạ Thích Nguyên Ngôn, Người  là Giảng sư Hoằng pháp TW.GHPGVN, Giáo thọ sư Trường Trung cấp Phật học, Sàigòn về đây để thay Hoà thượng làm Trụ trì. Ngày 12- 11- năm Bính Tý ( )Ban Trị Sự THPG.TP đã Bổ nhiệm Thượng toạ Thích Nguyên Ngôn chính thức đăng quang nhậm chức Trụ trì. Thượng tọa Trụ trì  được mười năm, đã gánh vát cho Hòa thượng rất nhiều Phật sự tại bổn tự. Những tưởng Thượng tọa sẽ tiếp tục lâu dài, nào ngờ đâu Thượng tọa cũng đã sớm treo bình theo Chư Tổ quảy dép quy Tây.

Sau khi đã có người lo cho ngôi Tam bảo, Hoà thượng tuy tuổi già và sức khoẻ mỗi ngày mỗi kém đi, nhưng khi nghĩ đến tiền đồ của Phật pháp, và nhất là thế hệ Tăng ni trẻ sau nầy, nên Hoà thượng đã quên đi tuổi già và bệnh tật, tiếp tục  trước tác, biên soạn và phiên dịch cho đến khi Ngài lâm bệnh nặng.

VIÊN TỊCH :

Gần 80 năm qua Hoà thượng đã thuận thế hóa duyên để phụng sự  Chánh pháp, lợi lạc quần sinh, để lại cho hậu thế một gia tài Phật pháp vô cùng quý giá trong sự nghiệp biên soạn, trước tác và phiên dịch của Ngài. Trước đó, Sức khoẻ Hoà thượng rất tốt, tỉnh giác, đầy năng lực, nên thời gian gần 10 năm Hoà thượng vẫn tiếp tục điều hành công việc của Chùa trên cương vị là Viện chủ, và tiếp tục hiệu đính các tài liệu giáo khoa Kinh- Luật- Luận- Hán Văn, mà Hoà thượng đã dày công phiên dịch, biên soạn hơn 3 thập niên qua để làm tài liệu cho Tăng Ni hậu thế. Ngày 18/ 11/ 1995, Hoà thượng lâm trọng bịnh, tuy đã vượt qua, song sự đi lại không được bình thường như trước.

Thế rồi, đến ngày 23 tháng 6 năm ẤT Dậu Hoà thượng bị cơn bịnh cũ tái phát dữ dội có phần nguy kịch, mặc dầu môn đồ Pháp quyến và Giáo hội cùng các Y-Bác sĩ  ở Bệnh viện đã tận tình chăm sóc. Nhưng vì tuổi cao sức yếu, Ngài đã xả báo an tường thâu thần Viên tịch vào lúc 15giờ 15 phút ngày 17 tháng 6 năm ẤT Dậu (nhằm ngày 22 tháng 07 năm 2005 )

Trụ thế : 78 năm.58 Hạ lạp

Giáo hội và Môn đồ Pháp quyến từ đây vĩnh viễn vắng bóng một bực Tôn sư khả kính. Từ nay huyễn thân Ngài trở về với tứ đại, nhưng hình ảnh và cuộc đời Ngài mãi mãi là tấm gương chói sáng cho Tăng Ni và Tín đồ quy ngưỡng.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhứt Thế, Phước Hậu Đường Thượng. Khai Sơn Khánh Vân Tự.Thượng NHƯ Hạ CỤ THIỆN, Tự GIẢI TOÀN NĂNG, Hiệu HOÀN QUAN Tân Viên Tịch Đại Lão Hoà Thượng Giác Linh Thuỳ Từ Chứng Giám.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2011(Xem: 4458)
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
08/08/2011(Xem: 3921)
Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Phước Huệ (1875 - 1963) - chùa Hải Đức
08/08/2011(Xem: 4437)
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
07/08/2011(Xem: 11574)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
04/08/2011(Xem: 4408)
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
30/07/2011(Xem: 6065)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
28/07/2011(Xem: 4896)
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành: -Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi. -Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật. -Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo. -Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông. -Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang. Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm -Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương. -Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
15/07/2011(Xem: 5833)
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
24/06/2011(Xem: 4875)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
24/06/2011(Xem: 4897)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567