Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hoàn Quan (1928 - 2005)

20/10/201920:20(Xem: 4762)
Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hoàn Quan (1928 - 2005)
HT. Thich Hoan Quan

CỐ ĐẠI LÃO HOÀ THƯỢNG THÍCH HOÀN QUAN (1928-2005)

Khai Sơn Chùa Khánh Vân, Quận 11, Sài Gòn



I-THÂN THẾ :

Hoà thượng  Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN.

Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ  Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.

II-XUẤT GIA HỌC ĐẠO :

Cố Đại lão Hoà thượng vốn sinh ra trong gia đình có truyền thống Phật giáo lâu đời. Tổ khảo của Ngài là Đệ ngũ tổ, Tổ đình Sắc Tứ Thiên Ấn, nơi đây là đệ nhất danh lam tỉnh Quảng Ngãi. Ngài Đệ Ngũ tổ Thiên Ấn hiệu là Hoằng Phúc, khai sơn Tổ đình Sắc Tứ Quang Lộc. Do vậy, lúc 8 tuổi Ngài về Tổ đình Thiên Ấn  ở với Hoà thượng Diệu Quang. Đệ lục tổ Tổ đình Thiên Ấn  là Cậu ruột, được Ngài Lục tổ Diệu Quang nuôi dạy 2 năm, nhưng chưa thế phát Quy y, vì lúc đó Ngài còn nhỏ.

Trong dịp Hoà thượng Khánh Ngọc từ miền Nam về thăm quê hương Quảng Ngãi, thân sinh của Ngài gởi cho Hoà thượng Khánh Ngọc nhờ dẫn vào Nam gởi cho Sư cụ Khánh Anh, hiện đang Trụ trì Tổ đình Phước Hậu, huyện Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, nhưng vào đến nơi thì Hoà thượng Khánh Ngọc giữ ở với Hoà thượng tại Chùa Long Phước- Cái Vồn. Rồi ở với Hoà thượng Huyền Khải ở Cái Răng- Cần Thơ. Vì vậy mà Ngài chưa được đến diện kiến và thọ học với Sư Cụ Khánh Anh!

Trong thời gian ở 2 ngôi Chùa trên, Hoà thượng phải chấp lao phục dịch rất cực nhọc, lại không được học hành. Trong khi đó thì Hoà thượng có chí muốn học hành để trở thành người hiểu biết. Do vậy, vào một đêm đen Hoà thượng đã bỏ trốn, Ngài tìm đến Sư Cụ Khánh Anh hiện đang Trụ trì tổ đình Phước Hậu, huyện Trà Ôn. Sau khi trình bày tự sự và thổ lộ ý chí muốn xuất gia tu học. Hoà thượng được Tổ chấp thuận và thế phát xuất gia, ban Pháp danh là Như Cụ Thiện, năm ấy Ngài tròn 15 tuổi.

Dù đã là 15 tuổi, nhưng vẫn chưa được học hành. Do đó, sau khi xuất gia Hoà thượng được tổ Khánh Anh hết lòng dạy dỗ và Cố Hoà thượng Thiện Hoa là Sư huynh đã dạy Việt văn cho Hoà thượng. Khi Hoà thượng đọc được chữ Việt thì rất mừng. Và từ đó Hoà thượng theo học hai chương trình.  Nội điển và Ngoại điển.

Năm 1942 Tổ Khánh Anh cho Ngài thọ giới Sa Di và cho Pháp tự là Giải Toàn Năng.

Năm 1946 Sư cụ đưa Hoà Thượng lên Sài gòn ở Chùa Ứng Quang, theo học chương trình Sơ đẳng Phật học.

Năm 1950, khi Phật Học Đường Nam Việt- Chùa Ấn Quang thành lập, do Hoà thượng Thiện Hoà làm Giám đốc. Hoà thượng đã cùng quý Hoà thượng Thích Huyền Vy, Hoà thượng Thích Từ Thông, Hoà thượng Thích Thanh Từ, Hoà thượng Thích Quảng Long, Hoà thượng Thích Minh Cảnh.v.v…theo học chương trình Trung đẳng và Cao đẳng Phật học.

 Năm 1955 Hoà thượng thọ Cụ túc giới ở Đại giới đàn được tổ chức tại Tổ đình Ấn Quang, do Hoà thượng Thích Đôn Hậu làm đàn đầu, với Pháp hiệu là Thích Hoàn Quan.

Song song với chương trình Phật học, Hoà thượng còn theo học chương trình thế học tại trường Văn Lang – Sài gòn cho đến khi tốt nghiệp Tú tài.

III-  HÀNH ĐẠO :

Khi tốt nghiệp Cao đẳng và Tú tài toàn phần, thì sau đó Ngài đi dạy các Phật học Viện, đồng thời Ngài là Giáo thọ sư Phật Học Đường Nam Việt. Năm 1960 Ngài làm  Đốc Giáo trường Phật Học Phước Hoà- Trà Vinh. Từ năm 1964 đến năm 1975, Hoà thượng là Giáo thọ sư của các trường Phật học như: Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Huỳnh Kim, Hải Tràng, Dược Sư, Từ Thiền, Bồ Đề Lan Nhã.v.v… những Tăng Ni sinh thọ học với Hòa thượng thuở ấy, hiện nay hầu hết là các bậc tôn túc ở các Tự-Viện, và đã là Trụ trì, Giảng sư, Giáo thọ sư các trường Phật học, và có người hiện đã lên hàng Giáo phẩm, đang giữ chức vụ quan trọng trong Giáo hội các tỉnh thành, và các ngành các cấp TW giáo hội.

 SỰ NGHIỆP PHIÊN DỊCH :

Với nhân duyên đồng chơn nhập đạo, sớm gặp được Minh sư, và sẳn có chủng tánh Đại thừa, nên Ngài đã có một thứ Trí tuệ hơn người đang tiềm ẩn trong  bậc chân tu, vốn đã có hoài bảo “Thượng cầu Phật đạo- Hạ hóa chúng sinh”, và nhất là luôn nghĩ đến thế hệ Tăng Ni mai hậu.

Vì thế cho nên, ngoài việc giảng dạy tại các trường Phật Học Viện, Ngài còn trước tác, phiên dịch và biên soạn những bổn Kinh- Luật- Luận rất có giá trị để lại cho hậu thế như sau:

1-    Về Kinh Ngài đã Dịch các bộ Kinh như: Thập Thiện Nghiệp Đạo, Bát Đại Nhơn Giác, Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Di Giáo, kinh Viên Giác…

2-    Về Luật Dịch bộ Luật Trường Hàng gồm Tỳ Ni, Sa Di, Oai Nghi, Cảnh Sách, thành văn vần rất hay, làm cho hàng hậu học dể nhớ.

3-    Về Luận Ngài đã dịch các bộ như: Tu Tập Chỉ Quán Toạ Thiền Pháp Yếu, Hiển Mật Viên Thông Tâm Yếu Thành Phật, Tam Thập Tụng luận…

4-    Về Hán Văn : Ngài đã soạn các bộ như: Giáo trình Hán Văn- Văn Phạm cương yếu, Tân Học Quốc Văn… Các bộ Giáo trình Hán Văn nầy Ngài đã biên soạn dạy cho Tăng Ni tại các Phật Học Viện, phần nầy vẫn còn là “Bản thảo” chưa in ấn lưu hành.

5-    Về Nghi Lễ Ngài đã biên soạn tập “Nghi Lễ” rất công phu và chi tiết, rất hữu ích cho lớp Tăng Ni trẻ cũng như rất thuận tiện cho những ai có nhu cầu trong việc ứng phó đạo tràng, cũng có thể lấy đây làm phương tiện để truyền bá Phật pháp.

Ngoài những bộ Kinh – Luật- Luận và các Giáo trình đã được phiên dịch và biên soạn  như đã nêu trên thật vô cùng quý giá để lại cho đàn hậu tấn, Ngài còn mong muốn làm sao cho Tăng Ni trẻ sau nầy có đủ tư liệu về Tam tạng Thánh điển bằng Việt ngữ, để nương theo đó tu học. Những tác phẩm của Hòa thượng đã được Ban Văn Hóa Thành hội Phật giáo tổng họp lại thành bộ Phật Tổ Ngũ Kinh, đã được xuất bản và tái bản nhiều lần. Hiện nay chư Tăng Ni và Phật tử trong nước cũng như nước ngoài, xem Bộ Kinh nầy như bộ sách gối đầu giường trong việc tu và học.

SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG NGÔI CHÙA :

Vào năm 1964 Ngài đã Khai sơn Chùa Khánh Vân với biết bao nhiêu công sức và muôn vàn khó khăn gian khổ, vì nơi đây trước kia là một vũng sình. Ngôi chùa Khánh Vân lúc ấy đựơc che tạm lá và tôn, phên tre vách lá, Thầy trò ẩn dật nương náu tu hành. Năm 1968 Chùa bị hoả hoạn chiến tranh. Rồi từ đó, Ngài vừa đi dạy vừa nổ lực cùng với quý Thầy và Phật tử góp công sức khai móng để làm lại Ngôi chùa và đã đổ được một tầng làm Chánh Điện tạm, nay là Giảng đường của chùa Khánh Vân.

Do bận giảng dạy và Phiên dịch Kinh- Luật- Luận, cũng như chưa đủ nhân duyên để trùng tu ngôi chùa, nên chùa Khánh Vân vẫn là Ngôi Chánh Điện tạm. Cho đến ngày 06 – 02 – 1994 ( năm Giáp Tuất ) Nhân duyên đã hội đủ, Ngài đã cho khởi công đặt đá Đại Trùng tu Ngôi chùa. Do xuất thân từ  Thiên Ấn - Quang Lộc tổ đình, nên khi Ngài Khánh thành ngôi Chùa Khánh Vân, được Chư sơn Thiền đức tỉnh Quảng Ngãi kính tặng bức Hoành phi sơn son thép vàng, trong đó đặc biệt có hai câu: “Thiên Ấn kế thừa hoằng pháp nghiệp - Khánh Vân thiết lập độ sanh cơ.”

Khi công việc Phật sự Đại trùng tu ngôi Bảo điện được hoàn thành, thì cũng chính là lúc sức khoẻ của Ngài bắt đầu yếu đi. Chẳng những thế, Ngài lại lo lắng khi nghĩ đến việc phải tìm người lo cho ngôi Tam bảo, gánh lấy trách nhiệm Trụ pháp vương gia, trì Như lai tạng để truyền trì mạng mạch, tục diệm truyền đăng, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, làm cho Tam bảo được xán lạn huy hoàng. Vì thế, trong thời gian đó Ngài đã mời Thượng toạ Thích Nguyên Ngôn, Người  là Giảng sư Hoằng pháp TW.GHPGVN, Giáo thọ sư Trường Trung cấp Phật học, Sàigòn về đây để thay Hoà thượng làm Trụ trì. Ngày 12- 11- năm Bính Tý ( )Ban Trị Sự THPG.TP đã Bổ nhiệm Thượng toạ Thích Nguyên Ngôn chính thức đăng quang nhậm chức Trụ trì. Thượng tọa Trụ trì  được mười năm, đã gánh vát cho Hòa thượng rất nhiều Phật sự tại bổn tự. Những tưởng Thượng tọa sẽ tiếp tục lâu dài, nào ngờ đâu Thượng tọa cũng đã sớm treo bình theo Chư Tổ quảy dép quy Tây.

Sau khi đã có người lo cho ngôi Tam bảo, Hoà thượng tuy tuổi già và sức khoẻ mỗi ngày mỗi kém đi, nhưng khi nghĩ đến tiền đồ của Phật pháp, và nhất là thế hệ Tăng ni trẻ sau nầy, nên Hoà thượng đã quên đi tuổi già và bệnh tật, tiếp tục  trước tác, biên soạn và phiên dịch cho đến khi Ngài lâm bệnh nặng.

VIÊN TỊCH :

Gần 80 năm qua Hoà thượng đã thuận thế hóa duyên để phụng sự  Chánh pháp, lợi lạc quần sinh, để lại cho hậu thế một gia tài Phật pháp vô cùng quý giá trong sự nghiệp biên soạn, trước tác và phiên dịch của Ngài. Trước đó, Sức khoẻ Hoà thượng rất tốt, tỉnh giác, đầy năng lực, nên thời gian gần 10 năm Hoà thượng vẫn tiếp tục điều hành công việc của Chùa trên cương vị là Viện chủ, và tiếp tục hiệu đính các tài liệu giáo khoa Kinh- Luật- Luận- Hán Văn, mà Hoà thượng đã dày công phiên dịch, biên soạn hơn 3 thập niên qua để làm tài liệu cho Tăng Ni hậu thế. Ngày 18/ 11/ 1995, Hoà thượng lâm trọng bịnh, tuy đã vượt qua, song sự đi lại không được bình thường như trước.

Thế rồi, đến ngày 23 tháng 6 năm ẤT Dậu Hoà thượng bị cơn bịnh cũ tái phát dữ dội có phần nguy kịch, mặc dầu môn đồ Pháp quyến và Giáo hội cùng các Y-Bác sĩ  ở Bệnh viện đã tận tình chăm sóc. Nhưng vì tuổi cao sức yếu, Ngài đã xả báo an tường thâu thần Viên tịch vào lúc 15giờ 15 phút ngày 17 tháng 6 năm ẤT Dậu (nhằm ngày 22 tháng 07 năm 2005 )

Trụ thế : 78 năm.58 Hạ lạp

Giáo hội và Môn đồ Pháp quyến từ đây vĩnh viễn vắng bóng một bực Tôn sư khả kính. Từ nay huyễn thân Ngài trở về với tứ đại, nhưng hình ảnh và cuộc đời Ngài mãi mãi là tấm gương chói sáng cho Tăng Ni và Tín đồ quy ngưỡng.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhứt Thế, Phước Hậu Đường Thượng. Khai Sơn Khánh Vân Tự.Thượng NHƯ Hạ CỤ THIỆN, Tự GIẢI TOÀN NĂNG, Hiệu HOÀN QUAN Tân Viên Tịch Đại Lão Hoà Thượng Giác Linh Thuỳ Từ Chứng Giám.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8547)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8648)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10306)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14214)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8392)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17480)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 12116)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16757)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12991)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 7051)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]