Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mấy kỷ niệm với HT Thích Minh Chiếu (của HT Thích Quảng Ba, Canberra, Úc Châu)

10/05/202012:54(Xem: 5904)
Mấy kỷ niệm với HT Thích Minh Chiếu (của HT Thích Quảng Ba, Canberra, Úc Châu)

ht thich minh chieu

Mấy kỷ niệm với HT Thích Minh Chiếu

 

HT Thích Minh Chiếu, đối với chúng tôi là thế hệ bậc Thầy, hay đàn anh rất xa. Ngài là một trong những Tăng sinh thế hệ thứ ba của Trường Phật học Báo Quốc.

 

Khóa đầu trường có tên là An Nam Phật Học Đường, từ năm 1935-1944 thỉnh được Pháp sư Trí Độ-Hồng Chân (1894-1979) làm Đốc Giáo và dạy  cả Nội điển lẫn Ngoại điển gần 10 năm, tuyển nhận khá đông Học tăng, đào tạo nên nhiều Tăng tài kiệt xuất, như quý Ngài: Trí Đức-Thiện Siêu (1921-2001), Trí Nghiễm-Thiện Minh (1921-1978), Trí Quang-Nhật Minh

 

 

(1923-2019), Trí Tịnh-Nhựt Bình (1917-2014), Trí Thuyên (1923-1947), v.v.. . Khóa thứ nhì, Báo Quốc sau khi tạm ngưng do chiến tranh (chuyển lên thành Lớp Cao Đẳng Kim Sơn nhưng cũng không thể kéo dài), được tái lập từ năm 1947, thỉnh Ngài Trí Thủ làm Giám Đốc, lấy tên mới là PHĐ Báo Quốc, có được số Tăng sinh danh tiếng gồm quý Ngài: Minh Châu, Thiên Ân, Đức Thiệu, Trí Không, Nhất Hạnh, Thiện Tấn, Mãn Giác, Thuyền Ấn, Viên Giác, v.v… Khóa thứ 3 Báo Quốc tiếp sau đó, học Tăng nổi tiếng có quý Ngài: Đức Nhuận, Thanh Long, Quang Thể, Chánh Lạc, Thiện Giải, Thiện Châu, Thanh Trúc và HÒA THƯỢNG tân viên tịch MINH CHIẾU (1932-2020). Sau đó, lớp thứ tư Báo Quốc mới nhận quý Ngài: Chánh Lạc, Minh Tuấn, Thiện Bình, Đức Phương, Minh Tuệ, Chơn Ngữ, Từ Mẫn, Đức Chơn, Chánh Trực, Như Đạt, Trí Chơn, Chánh Nguyên … Lớp cuối, nhập học một thời gian ngắn, các vị Báo Quốc gởi vô tham học PHV Trung Phần Nha Trang, gồm có: Chánh Liêm, Huyền Giác, Trí Siêu, Thanh Huyền, Chơn Thức, Nguyên Hạnh, Đức Thanh, Hải Ấn, luôn cả quý Ngài: Huệ Tánh, Đức Trạch, v.v… (tài liệu trích từ đặc san “Về Cội”, xb 2012).

 

Dịp đầu tiên tôi được gặp Ngài Minh Chiếu, và khá đông quý Ngài cựu Học tăng các Khóa cũ 2-3-4-5 của Báo Quốc, của PHĐ Trung Việt-Nam Phần (sau đổi lại là PHV Nha Trang, cuối cùng là Viện Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học Hải Đức), và của các chi nhánh Phổ Đà-Đà Nẵng, Linh Sơn-Đà Lạt, Già Lam-Gia Định, v.v… là vào khoảng thời gian đầu thập niên 1970s (phần tôi chỉ được tham dự 2 lần, 1973-1974) đã hội tụ thật đông đảo về Hải Đức để mừng thọ Ngài Thích Trí Thủ (cũng là Giám Viện của Hải Đức), dịp Vía Quán Thế Âm 19/9 mỗi năm, gọi là NGÀY VỀ CỘI.

 

Nhân duyên lần thứ hai hội kiến HT Thích Minh Chiếu, bi thiết hơn: Sau mấy lần Về Nguồn thời còn bình yên làm Sinh viên Cao Đẳng ấy, thời thế đã hoàn toàn đổi thay. Tháng 9/1975, bốn huynh đệ tham học Hải Đức chúng tôi (Đồng Hạnh, Quảng Ba, Quảng Trừ, Nguyên Quang) cùng xin rời Viện về lại chùa cũ để phụ giúp 2 Ngài Bổn sư lo tổ chức Giới đàn Hưng Long cuối 1975 và Khóa An cư giữa 1976. Kế đó, sau một chuyến ngắn đi Saigon thăm quý Ngài Trí Thủ, Huyền Quang, Thiện Minh và Quảng Độ, Minh Kiến v.v… tôi và hai đệ Nguyên Tú, Viên Lý nhận đi công tác Phật sự do VHĐ cử, tháng 10/1976 lên nhận nhiệm sở Tỉnh Hội Phú Bổn, chỉ mấy tháng sau cả ba đều bị tù tội, phần tôi tháng 2/1977 bị CA bắt giam vô cớ 3 năm; vừa ra tù không bao lâu, đầu mùa An cư  năm 1980, lại được Ôn Trí Thủ gọi vào Già Lam để tham sự trong Ban Biên Tập bộ Bách Khoa Phật Học Từ Điển PGVN và trong Ban Kiến Đàn ĐGĐ Ấn Quang vào tháng 10/1980, thì tháng 11/1980 đã liền bị CA Saigon đuổi ra khỏi Già Lam, tình thế buộc tôi phải chạy tìm nơi ẩn trú tạm, may được Ôn Trí Quang (mà tôi được khá gần gũi để theo học hỏi lúc mấy tháng tạm trú tại Ấn Quang để làm việc ĐGĐ cho Viện) giới thiệu gởi tôi vô tạm ẩn làm bệnh nhân trong Bệnh viện Sùng Chính mấy tuần. Chính ngay trong đó, tôi gặp Ngài Minh Chiếu, cũng mới ra khỏi sau 5-6 năm tù, xanh xao, phù thũng, răng rụng … cũng cần tạm trú tại Sùng Chính để vừa chữa bệnh, vừa chờ đợi tìm nơi tạm trú dài hạn hơn. Bi thiết ngần nào!!

 

Quá đông đảo các thế hệ chư Tôn Đức đàn anh, như thế hệ Ngài Minh Chiếu, và thế hệ chúng tôi, trưởng thành từ thập niên 1960-70, ít nhiều dài ngắn nếu đã có cơ hội tùng sự, hành đạo cho các cấp Giáo Hội Thống Nhất từ trước 1975, thì sau 1975, hằng trăm huynh đệ Tăng cũng như Ni, đã vì GH vì đạo pháp, mà phải trải qua những lao lung, trù dập, đe dọa, đuổi xua, trốn chạy, lận đận…, cũng có thể nói là từ hàng lãnh đạo như quý Ngài trong Viện Hóa Đạo, quý Ngài Tuyên Úy, đến hàng các Ban Đại Diện GH cấp Tỉnh/Quận … biết bao nhiêu vị từ Quảng Trị đến Cà Mau, Cao Nguyên … đã phải cam chịu quá nhiều tủi nhục, thống hận, biệt giam, cùm kẹp, đói khát, bệnh tật, khổ sai …, thường là ai nấy phải tự mình gồng mình chịu đựng trong cô độc, cô đơn, trong biệt giam, trong trại lao động khổ sai … cách xa nhiều tỉnh, có mấy ai trong chúng tôi được sự quan tâm đáng kể để được tồn tại trong tù giam, cát sô, trại cải tạo … từ bên ngoài, từ đồng môn pháp lữ, từ huynh đệ đồng sư, hay mấy ai có tử đệ dám vượt qua sợ hãi ….để mạnh dạn đi thăm tù “chính trị” !!!

 

Đồng cảnh ngộ, cùng trên bước đường lưu lạc tự lo thân phận sau thời kỳ tù tội, cùng là những người thất thế, không mấy ai trong số cựu tù ‘chính trị, tôn giáo’, như chúng tôi hay Ngài Minh Chiếu, có được hộ khẩu, thường trú, tạm trú, thậm chí không có được tấm giấy tùy thân hợp pháp với chế độ mới, gần như ai cũng bị mất quê hương ngay trên xứ sở của chính mình. Nhất là sau 1980-81 thì cũng không ai trong ‘cựu tù’ chúng tôi có được cơ chế Giáo Hội để làm chỗ dựa (không trách hầu hết chư Tăng sau khi ra tù đều …hoàn tục), do đó, tuy chỉ hơn tuần gần nhau, đang lúc cả hai cần phải đóng vai “bệnh nhân” cùng trong một phòng bệnh ở Sùng Chính, nên giữa tôi và HT Minh Chiếu đã có những buổi dài giờ trao đổi, chia xẻ tâm cảm, chí nguyện, suy tư … về đất nước, về Giáo Hội, về quê hương, về tình đồng đạo …

 

Lần thứ ba gặp Ngài Minh Chiếu, chỉ mới ba năm rưỡi trước, gần cuối tháng 9/2016, sau 36 năm có đến 7, 8 lần xin Sứ Quán Hà Nội tại Canberra  cấp Visa đều bị từ chối mà không nêu rõ lý do, nhưng lần ấy nhờ travel agent xin với Lãnh Sự quán Sydney (có phải sơ sót? vô tình cấp?), tôi có được chuyến về quê gấp gáp chỉ 17 ngày, để húy kỵ Bổn Sư (HT Thị Phong- Bửu Quang, 1927-1995) và siêu tiến Tôn thân, Gia quyến, và dành trọn 15 ngày đêm vội vàng đi xuyên qua 18 tỉnh thành để lễ viếng gần 160 Chùa, Viện, các trường Phật Học, các Tổ đình, lễ bái các tháp Tổ, tháp Ân Sư, Giáo Thọ, hầu thăm chư vị Trưởng Lão, Tôn Túc của  GHPGVNTN chúng ta và của các Giáo hội, Giáo phái khác … Khi đến chùa Phật Ân Long Thành, tuy cũng trong thời lượng khá vội vã, hấp tấp, nhưng Thầy Minh Tâm đã đưa tôi đến thất riêng viếng Ngài Minh Chiếu …

 

Những lần qua Úc Phật sự tìm đến thăm Vạn Hạnh, tôi đều kính gởi lời và chút quà nhờ HT Minh Tâm mang về cúng dường quý Ngài lão bệnh HT đang hưu dưỡng ở Phật Ân: HT Minh Kiến, HT Minh Chiếu, những món quà rất nhỏ ….. Lần vào tháng 9/2016 nầy, được ngồi với nhau 10-15 phút thăm hỏi bệnh tình, sức khỏe, tôi xót xa khi biết khó mà có dịp khác nữa, vì bậc Trưởng Lão đã quá suy yếu kia, không có chùa riêng, đệ tử riêng, nương tựa nơi Phật Ân tình nghĩa, suốt gần 40 năm ẩn tu, thanh tịnh, chân thân, nhân ngã tận xả, không màng thế sự ác độc, đạo sự đảo điên, không xu phụ thời thế mới để tìm sự an ổn cá nhân, vẫn một lòng thiết tha với vận mệnh của GHPGVNTN như ngày nào.

 

Thật đáng trọng, đáng kính thay !!!

Canberra một sáng Mạnh Đông Canh Tý (10/5/2020)

Tỳ kheo Quảng Ba vội ghi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 7930)
Đại lão hòa thượng Thích Trí Nhãn thế danh là Đoàn Thảo, pháp danh Như Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Thích Trí Nhãn. Ngài sinh ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Dậu tức vào năm 1909 dương lịch, tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, Xã Thanh Hà, nay thuộc thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, Thị Xã Hội An.
09/04/2013(Xem: 15482)
Xuất thân trong một gia đình gia giáo có thân phụ là Chánh Tổng nên Hòa Thượng đã sớm hấp thụ Nho học và Tây học từ thuở ấu niên. Vì thế, Hòa Thượng đã thông thạo cả Hán văn lẫn Pháp văn, kết hợp và dung hòa được cả hai truyền thống văn hóa Đông – Tây.
09/04/2013(Xem: 12650)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 9610)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 6996)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 3922)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 6937)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 19231)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 10488)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 5728)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]