Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Còn gì cho Thầy (Thành kính tưởng niệm HT Thích Quảng Độ)

14/04/202019:35(Xem: 5337)
Còn gì cho Thầy (Thành kính tưởng niệm HT Thích Quảng Độ)

CÒN GÌ CHO THẦY 

Thành kính tưởng niệm HT Thích Quảng Độ

Cứ mỗi lần nhìn hình ảnh thầy nằm thiêm thiếp lúc đến thăm trước hai ngày thầy viên tịch, lại bồi hồi xúc động; Nhạc phẩm - Trọn nghĩa ơn Thầy (gia huy music: Tâm ca) cũng là điệu khúc sâu lắng làm dậy sóng tình thầy- trò suốt thời gian chìm lặng vô thanh.

Câu hỏi đầu tiên của thầy khi Tâm Huệ (Đổng Nghiêm) đến thăm, lúc Ngài vừa về lại Thanh Minh Thiền viện năm xưa – Minh Mẫn giờ sống ra sao? Ôi, câu hỏi tuy đơn điệu nhưng thắm đẩm tình thầy. Khi còn an trú ở Thái Bình, thầy nghe MM được trả lại tự do sau 10 năm xa cách, thầy gửi cho 10 ngàn (vào năm 1987) kèm vài giòng tâm cảm, khi đọc, không cầm được nước mắt. Còn nhớ trong đó có câu:-trời  đất mênh mông mà không có đất cắm dùi (nghĩa là lúc đó MM đang sống ở vỉa hè để bơm quẹt gas)! Lá thư nhỏ bằng bàn tay, một tu sĩ trẻ đến mượn xem rồi đem đi luôn.Vậy là tuyệt tích của thầy.

Thầy tình cảm, thủy chung,nhân hậu, cương trực, hiếu thảo, trí tuệ ,uyên bác, ôn hòa và cũng rất kiên định …bao nhiêu đức tính ưu việt nhân cách làm người, thầy đều có đủ. Bộc trực, nóng tánh  biểu hiện cho lòng tốt, nhưng lại là điểm yếu để đối phương khai thác, từ đó, bao nhiêu thông tư, văn bản đã chặt hết chân tay. Theo hòa thượng Thích Thái Hòa nói với BBC News Tiếng Việt hôm 24/2:

"Tôi không nghĩ ngài là người tạo ra một vài khó khăn cho sự hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ bên ngoài. Đó là điều không bao giờ có, bởi cương vị một Tăng thống, không ai muốn như thế cả. Nhưng có thể, do tiếp nhận từ những nguồn thông tin thiếu chuẩn mực nên dẫn đến như vậy."

Tinh thần đồng đội của thầy làm cho những ai hy sinh vì lý tưởng, càng sẵn sàng hy sinh. Thầy từng nói: -“ nếu các ngài muốn theo vinh quang thì cứ đi, còn con thuyền này dù có nát, bể hay chòng chành thì hãy để chúng tôi tự lo lấy”, lòng thủy chung và tinh thần trách nhiệm đã đè nặng trên đôi vai Ngài suốt quảng đời còn lại, Ngài vẫn hiên ngang dấn bước.

                                                             ***

27 tháng 11 năm 1928 Thái Binh đã sản sinh– một người con trác tuyệt về mọi mặt, đúng với cái tên Đặng Phúc Tuệ; Khi xa quê vào Nam ăn học, gắn liền trách nhiệm với Phật giáo thời bấy giờ khi chính quyền áp đặt Phật giáo vào Dụ số 10, lúc ấy ngoài 30 tuổi, đã từng bị tù tội, bị bạo hành phải lâm trọng bệnh di chứng đến tuổi già.

Ngài Xuất gia vào năm 14 tuổi (1942) tại chùa làng Thanh Lam, tỉnh Hà Đông, nay là thành phố Hà Nội;Bổn sư của Ngài là cố Hòa thượng Thích Đức Hải tại chùa Linh Quang, tỉnh Hà Đông. Năm 1944, Ngài thọ giới sa di. Năm 1947, ngài đăng đàn thọ đại Cụ túc giới; năm 1951 du học tại Srilanka  và Ấn độ; . làm Phát ngôn nhân kiêm Thanh tra của Viện Hóa Đạo vào năm 1972 , và là Tổng thư ký Viện Hóa đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất năm vào 1974 Ngài đã từng giảng dạy tại Viện Đại học Vạn Hạnh, Đại học Văn Khoa Sài Gòn, Viện Đại học Hòa Hảo (An Giang), Giáo Hoàng Học viện Piô X (Đà Lạt) và các phật học viện.Người còn là tác giả của những tác phẩm phiên dịch, sáng tác rất giá trị, nhất là bộ Phật quang Đại tư điển, đã phải 2 lần dịch khi bản dịch đầu tiên ở Thái Bình bị tịch thu.2 năm sau dịch lại tại Thanh Minh Thiền viện Sài gòn.

Năm 1999, Ngài làm Viện trưởng Viện Hóa đạo; Sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch năm 2008, Ngài là Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.theo chúc thư để lại thì Hòa thượng Thích Quảng Độ được chọn làm Tăng thống thứ năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tháng 11 năm 2011 trong Đại hội kỳ IX của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tổ chức ở chùa Điều Ngự, Tp WestminsterQuận CamCalifornia , Ngài mới chính thức là Đệ ngũ Tăng thống.

Trong quá trình điều hành Giáo hội, hết lòng phục vụ Phật giáo theo kỷ cương truyền thống, dĩ nhiên với tính khí bộc trực, tuy có người không thích nhưng không ai xem nhẹ nhân cách của Người.Thuở còn là Thanh tra cho GHPGVNTN, do tính trong sáng, bộc trực, Ngài gặp không ít chướng ngại của những đối tượng thiếu minh bạch, nhiều lần xin từ nhiệm để lo việc văn hóa giáo dục, nhưng Giáo hội lúc bấy giờ không ai đủ nhân cách thay thế.Chính vì thế, khi đảm trách gánh vác sinh mệnh GHPGVNTNT trong cơn sóng gió, với hiện tướng của một bậc trượng phu,quân tử, uy vũ bất năng khuất,hương thơm lan tỏa, uy tín phát tiết, tuy ở một  góc nhỏ trên mãnh đất của tinh cầu, tinh thần vô úy bất khuất và bất bạo động đã tỏa hương thơm khắp hoàn vũ; do vậy,những giải giành cho Ngài như Giải quốc tế Homo Homini vào năm 2003, Giải tưởng niệm Thorolf Rafto năm 2006, Ngài được nhiều lần, .đề cử cho giải Nobel Hòa bình.  Thiết nghĩ,cho dù bao nhiêu giải quốc tế cũng chưa đủ phủ trọn tầm vóc của một đấng anh minh!

 

htquangdo



Một chút dư âm hoài niệm

Năm 1945, miền Bắc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định, người chết đói nằm ngổn ngang khắp đường phố, dưới sự chỉ dạy của Hòa thượng Thích Đức Hải, Người cùng thầy lập trại cứu tế giúp dân. Người cũng đi bộ hai ngày đường về quê, cỏng người anh sắp chết vì đói để về chùa chăm sóc.Người chăm sóc mẹ già nơi cảnh cô liêu rét mướt thiếu thốn mọi bề đến khi mẫu thân gửi xác trên quê nhà, rãnh tay, Ngài gia công cho việc phiên dịch và tiếp tục sứ mạng với GHPGVNTN, tâm tư luôn nghĩ đến sinh mệnh của Phật giáo Việt Nam.

 Tháng 3 năm 1990 tại Hà Nội, các nhà nghiên cứu, gồm các ông : Nguyễn Văn Phát, Trương Đình Nguyên, Vũ Tá Nhí Trưởng phòng Văn bản Viện Hán Nôm … Nguyễn Tương Lai, Trưởng phòng Thái Học Viện Đông Nam Á, Mai Xuân Hải, Trưởng phòng Ứng dụng Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nguyễn Văn Phát, Giáo sư khoa Trung Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trương Đình Nguyên, Giáo sư khoa Trung Văn trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội đều đến thỉnh vấn sở kiến của Người về chuyên môn văn học. Mục đích cuộc gặp gỡ này cũng là thỉnh mời Hòa thượng tham gia Phân viện Nghiên cứu Phật học nhưng ngài chối từ.                                                                                             

                                                            ***

Với nhân cách và trí tuệ của Ngài, Thiền sư Nhất Hạnh tôn kính Ngài là  một vị BỒ TÁT VÔ UÝ .

Trí Quang Thượng Nhân tặng cho Hòa thượng Thích Quảng Độ là: "Phật pháp công thần".

Nhà thơ Tâm Nhiên có câu “Đại hùng tâm giữa cuộc bể dâu” nói về Người.Riêng bà Thái Kim Lan nhận định:

Có lẽ tôi nói một chút về tính cách thống nhất Phật giáo, mà có lẽ qua thầy Thích Quảng Độ, đối với chúng tôi, sự xuất hiện của thầy Thích Quảng Độ trong thời gian những thập nhiên ở thế kỷ XX hay và đẹp lắm.

“Ở chỗ đây là một vị tu sỹ người Bắc vào trong Nam và tinh thần Phật Giáo Việt Nam ở Bắc, đó là nguồn, là cái gốc và chính các vị đại lão ở miền Trung, cũng như ở trong Nam đều nhìn hình ảnh Phật giáo ngoài Bắc giống như là cái gốc của mình.

“Thì tôi nghĩ sự có mặt của cố Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ở trong không gian Việt Nam này là một tiêu biểu để cho sự thống nhất việc Phật giáo Nam – Trung – Bắc có đầy sức sống và mãnh lực.

“Bởi vì chúng ta phải nhớ là đời Trần, đời Lý, Phật giáo là biểu tượng và sức mạnh giành lại độc lập, giữ lại độc lập cho Việt Nam, bởi vậy thành thử hình ảnh của thầy rất đẹp ở trong tâm tưởng của chúng tôi.

“Và tôi nghĩ rằng việc này, Phật tử cũng như mọi người nếu khác ý kiến cũng nên suy nghĩ lại để chúng ta thấy là Phật giáo Việt Nam nên là một, để nó có sức mạnh hơn,” bà Thái Kim Lan nói với BBC.

Dĩ nhiên, sau sự mất mát to lớn của một thạch trụ PGVN, hàng hậu học cảm thấy trống vắng bâng khuâng, có người than -

Đến khi ông mất đi nhiều người mới chợt nhận ra rằng nước Nam đã mất một vị Chân Sư.

Sau ngày vắng bóng, trên thế giới vô vàn lời tán tụng, nhắc nhở về Ngài,Người vẫn là ngôi sao sáng trên bầu trời Phật giáo Việt Nam, sẽ đi vào giáo sử PGVN thời hiện đại.

                                                    ***

Ngày 22/11/2018, hòa thượng Thích Nguyên Lý đưa hòa thượng Thích Quảng Độ về chùa Từ Hiếu. Và từ đó đến lúc viên tịch, hòa thượng sống ở đây.Một danh Tăng cao đức không chùa, không tài sản, lúc mãn phần không nghi thức rườm rà,không thỉnh mời, không chấp điếu, không  xây tháp.Tro cốt về với biển khơi của Tổ quốc, đã xác định dù sống hay chết vẫn là con dân đất Việt, luôn là tinh thần PGVN .

92 tuổi trãi qua bao thăng trầm vinh nhục, nhưng chí khí vẫn hiên ngang, vẫn yêu cuộc sống, nhìn thế gian như ảo ảnh phù du; dù là thân hay thù, vẫn chỉ một lòng nhân ái. Ngay cả việc sống chết, đối diện với tử thần, Người cũng hài hước, xem nhẹ.Ta hãy đọc bài thơ “Nói chuyện với tử thần” sau đây:
“Xà lim trông hệt cái nhà mồ
Mỗi lần mở cửa tôi ra vô
Thấy như chôn rồi mà vẫn sống
Tử thần, tôi sợ con cóc khô
Tử thần nghe vậy bèn sửng cồ
Nửa đêm đập cửa tôi mời “dô”
Sẵn có thuốc lào phèo mấy khói
Tử thần khoái trá cười hô hô 

Trong khi vui vẻ tôi trò chuyện
Tử thần đắc ý nói huyên thuyên
Trần gian địa ngục ham chi nữa
Thôi hãy bay mau vào cõi tiên
Tớ xem tướng cậu cũng hiền hiền
Mà sao thiên hạ sợ như điên
Mỗi lần thấy cậu lò dò tới
Chúng nó hè nhau bỏ tổ tiên
Ấy cũng bởi vì chúng nó điên
Chớ anh coi tướng ta rất hiền
Đứa nào hết số ta mới rớ
Bảo chúng làm ăn đừng có phiền.
Tớ đây tuy có chút lo phiền
Nhưng mà cũng chẳng ham cõi tiên
Trần gian địa ngục tớ cứ ở
Mê loạn cuồng say với lũ điên
Trần gian ta thấy bết hơn tiên
Thân bị gông cùm tâm chẳng yên
Sống trong hồi hộp trong lo sợ
Dẫu phải thánh hiền cũng phải điên
Trần gian tớ thấy béo hơn tiên
Ấy cũng bởi chúng có giấy tiền
Kim cỗ ngàn đời người vẫn thế
Có tiền đầy túi nó mua tiên
Mọi người còn đắm mộng triền miên
Hạ tuần trăng đã dọi vào hiên
Tử thần âu yếm hôn tôi biệt
Phóng ngựa ma trơi về hoàng tuyền
Còn một mình tôi vào cõi thiền
Lâng lâng tự tại cảnh vô biên
Bồ Đề phiền não đều không tịch
Niết Bàn sinh tử vốn vô biên”
(Nói chuyện với tử thần)

MINH MẪN

09/4/2010 kỷ niệm nhân thất thứ 7 của một y chỉ Tôn sư

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8069)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4801)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37149)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6108)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6092)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5726)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5628)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5894)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5441)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8747)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]