Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng Thích Đồng Chơn (1947-2020)

29/03/202007:48(Xem: 6764)
Hòa thượng Thích Đồng Chơn (1947-2020)
ht thich dong chon 1947-2020Chân dung HT.Thích Đồng Chơn (1947-2020)
 


Hòa thượng Thích Đồng Chơn
(1947-2020)


 

  1. Thân thế:

Hòa thượng Thích Đồng Chơn thế danh là Bùi Văn Bảy, sanh năm 1947 tuổi Đinh Hợi, nguyên quán thôn Trung Tín, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định – nay là thị trấn Tuy Phước, huyện Tuy Phước. Thân phụ của Ngài là Bùi Tân, Pháp danh Đồng Niên, thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Hội, Pháp danh Đồng Hiệp

Ngài là người con thứ bảy trong gia đình Phật tử thuần thành. Ngài quy y với Hòa thượng Thích Thị Châu, hiệu Từ Hàng, Trụ Trì chùa Bình An, thôn Bình Thạnh, xã Phước Hậu, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định nay là phường Nhơn Bình thành phố Quy Nhơn.

  1. Thời kỳ xuất gia tu học:

Thuở thiếu thời, sớm được hai cụ thân sinh cho xuất gia đầu Phật tại chùa Bình An, Hòa thượng là trưởng tử của Hòa thượng Thích Thị Châu, được phú cho pháp danh là Đồng Chơn từ năm Hòa thượng học lớp 7 (năm 1958, 12 tuổi).

Sau khi xuất gia, Hòa thượng được Bổn sư cho theo hầu Hòa thượng Thích Huyền Ấn, chùa Bích Liên để học gia giáo Hán ngữ cũng như những bộ Kinh Luật cơ bản của người xuất gia như Luật Trường Hàng, Luật Giải, Cảnh Sách Giải, Nhị Khóa Hiệp Giải, v.v…

Vào những năm 60, chiến tranh xảy ra liên miên trên dải đất miền Trung thân yêu, để lánh chiến tranh và trau dồi kiến thức ngoại điển, Hòa thượng được Bổn sư cho vào Sài Gòn theo học chương trình Trung Học Đệ Nhất Cấp tại trường Trung học Bồ Đề Sài Gòn. Năm 1968 Hòa thượng được Bổn sư cho thọ Tam đàn Cụ Túc, tổ chức tại chùa Long Khánh Quy Nhơn do Hòa Thượng Phúc Hộ làm đường đầu, HT Tâm Đạt [Thiên Bình] làm Yết Ma, Hòa Thượng Giác Tánh và Hòa thượng Mật Nguyện làm Giáo Thọ A Xà Lê….

Đầu năm 1970, Hòa Thượng tham học chương trình Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học của Phật Học Đường Phước Huệ tổ chức tại Tổ Đình Thập Tháp Bình Định. Pháp Hữu đồng học của Hòa thượng gồm có quý Hòa thượng: Thích Đồng Hạnh, Thích Viên Quán, Thích Viên Thành, Thích Đồng Chất, Thích Nhật Quang (Quảng Khai), Thích Đồng Hương, Thích Quảng Ba… Ban Giáo Thọ lúc bấy giờ là những vị cao Tăng thạc đức, như: Hòa thượng Thích Kế Châu, Hòa thượng Thích Tâm Hoàn, Hòa thượng Thích Giác Tánh, Hòa thượng Thích Giác Ngộ, Hòa Thượng Thích Đồng Từ, Hòa thượng Thích Nguyên Trạch, v.v…


Đến giữa năm 1973, khóa học này được Tổng Vụ Giáo Dục cử Ngài Nguyên Hồng [Phó Viện Trưởng VĐH Vạn Hạnh] về Bình Định làm Chánh Chủ Khảo tổ chức thi tốt nghiệp tại Trường Trung Học Bồ Đề Quy Nhơn. Các môn thi đúng sát theo chương trình Trung Đẳng Chuyên Khoa mẫu mà Đại Hội Giáo Dục GHPGVNTN đã thông qua từ 1967. Hòa thượng là một trong số những Tăng sinh xuất sắc tại Khóa học này, thường xuyên được quý Ngài Giáo Thọ khen tặng.

Hòa thượng nhận được văn bằng tốt nghiệp Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học và được trúng tuyển vào Cao Đẳng Phật Học Viện Trung Phần, Hải Đức – Nha Trang tỉnh Khánh Hòa năm 1974.

 

Sau năm 1975, Bổn sư của Hòa thượng nhận thêm chùa Kim An ở An Nhơn và giao trọng trách “Trụ pháp vương gia và trì Như lai tạng” tại ngôi chùa Bình An cho Hòa Thượng. Thời kỳ này cuộc sống kinh tế vô cùng khó khăn, Hòa thượng làm gương và phải áp dụng pháp môn “Nông Thiền” với phương châm “Nhất Nhật Bất Tác, Nhất Nhật Bất Thực” của Tổ Bá Trượng mà điều hành sinh hoạt Thiền môn.

Cao quý thay! Dù vất vả như thế nhưng Hòa thượng không những không xao nhãng việc nghiên tầm giáo điển để gia tâm cho việc tu học của mình mà hằng tuần Hòa thượng đạp xe hơn mười cây số xuống chùa Long Khánh, Quy Nhơn để tham học từ chương những bộ Kinh Đại Thừa quan trọng như Lăng Nghiêm Trực Chỉ, Lăng Già Tâm Ấn từ Hòa thượng Thích Tâm Hoàn – một bậc quảng lãm trong Sơn môn Bình Định lúc bấy giờ. Cùng học với Hòa thượng thời ấy có quý Pháp Hữu, như: Hòa thượng Thích Nguyên Phước, Hòa thượng Thích Nguyên Chơn, Hòa thượng Thích Nguyên Điền, Hòa thượng Thích Đồng Châu, Hòa thượng Thích Như Trực, v.v…

Những năm đầu thập kỷ 80, Hòa thượng được Ngài Bình Chánh gọi lên chùa Sơn Long học Kinh Điển Đại Thừa cho đến ngày Ngài Bình Chánh viên tịch năm 1986

Hùng lực thay! Hòa thượng không quên dành thời gian vô cùng khan hiếm của mình để hướng dẫn và giảng dạy Phật Pháp cho thế hệ đàn em như Hòa thượng Thích Nguyên Tú, Thượng Tọa Thích Hữu Thông. Trong ánh mắt ngưỡng mộ của chư Tăng bấy giờ kính quý Hòa thượng như một bậc trưởng huynh dung dị, hiền hòa và tài đức kiêm ưu.

Với Hòa thượng, cho dù cuộc sống có thăng trầm như thế nào đi nữa, bổn phận của người xuất gia là Học cho đến cùng và Tu cho đến chốn. Không chỉ nghiên tầm giáo điển và tham cầu học hỏi từ cao Tăng thạc đức để nâng tầm kiến giải cao hơn, mà Hòa thượng còn chú tâm vào việc hành trì, lễ lạy và tụng đọc. Đêm đêm, trong lúc đại chúng thọ trì hai thời khóa tụng: Lăng Nghiêm và Tịnh Độ, Hòa thượng thong thả thỉnh từng tiếng Đại Hồng Chung, để cầu quốc thái dân an, để cho tiếng Đại Hồng Chung chùa Bình An ngân vọng khắp pháp giới, ân triêm lợi lạc cả hai thế giới âm dương. Sau mỗi thời khóa của đại chúng, Hòa thượng trì Chú Lăng Nghiêm, lạy Tam Thiên Phật và tụng Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, bản Kinh in từ bản khắc gỗ bảy quyển hiện đang thờ tại Chánh điện chùa Bình An.

Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông thay đổi trôi qua từng năm, nhưng hạnh nguyện của Hòa thượng trước sau vẫn vậy, không một lần đổi thay, không một khi trễ nãi. Lúc dạy chúng, Hòa thượng thường nhắc câu nói của Hòa thượng Thích Đổng Minh người xuất gia khi tuổi còn trẻ, phải dành tất cả cho việc học, lúc tuổi cao hơn, nên để tâm hành trì. Có học và có tu mới hoàn thành con đường xuất gia được.

Hòa Thượng là người khiêm cung, tôn trọng tình Pháp duyên Tăng, luôn thân cận Minh Sư, Pháp Lữ để học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm hành Đạo.  Vào những năm tháng rất khó khăn “củi quế gạo châu” nhưng tấm lòng hiếu khách và kính Tăng của Hòa thượng vẫn đầy ắp ngôi chùa Bình An đơn sơ để đón chư Tăng trong tinh thần “Tăng Đáo Phật Lai”. Quý Ngài thời ấy như Ngài Thiên Bình, Ngài Thiên Hòa, Ngài Gia Khánh, Ngài Thiên Trúc, Ngài Long Thạnh, Ngài Mỹ Long, Ngài Hội Khánh, quý Pháp hữu của Hòa thượng, như: Hòa thượng Thích Nguyên Khai, Hòa thượng Thích Thiện Trụ, Hòa thượng Thích Hạnh Hòa, Hòa thượng Thích Đồng Chất, Hòa thượng Thích Đồng Hùng, Hòa thượng Thích Đồng Hương, Hòa thượng Thích Đồng Trụ, v.v.. từ những thôn làng ở An Nhơn, Tuy Phước có việc xuống phố Quy Nhơn đều dừng chân ở chùa Bình An thăm Hòa thượng đàm đạo Phật lý và dùng bữa cơm tương rau đạm bạc.

  1. Thời kỳ hành Đạo :

Kể từ sau năm 1975, với vai trò Trụ Trì Chùa Bình An, Hòa Thượng dấn thân hành Đạo không mệt mỏi. Cả cuộc đời của Hòa thượng chỉ chuyên nhất ba việc: hành trì, nghiên cứu học hỏi và giảng dạy. Hòa thượng không quan tâm chuyện thế sự. Tấm lòng của Hòa thượng lúc nào cũng rộng rãi và bao dung, nhất là đối với pháp hữu đồng học, đối với thế hệ đàn em, thế hệ đệ tử, đệ tôn, nhất là đối với những vị xuất gia lầm lỡ có một lần thay áo muốn quay về nương tựa thiền môn, Hòa Thượng luôn rộng lòng nâng đỡ từ vật chất đến tinh thần.

 a/ Mở lớp Phật Học Gia Giáo để gieo mầm Trí Tuệ :

Dù phải dốc tâm vào việc hành trì và nghiên tầm giáo điển để tiếp nhận kiến giải từ chư tôn thiền đức bác lãm truyền trao nhưng Hòa thượng vẫn không quên ưu tư và quan tâm đến sự nghiệp giáo dục Phật Giáo. Thời ấy, Giáo Hội chưa đủ điều kiện để mở trường Phật học với những chương trình sơ cấp, trung cấp và cao cấp để Tăng ni tham học, Hòa thượng đã dùng ngôi chùa Bình An mở lớp Phật Học Gia Giáo, bắt đầu từ năm 1981. Hai vị học tăng đầu tiên của lớp Gia Giáo nầy là Thầy Thị Quả và Thầy Đồng Văn, giờ hai vị ấy tuổi đã ngoài năm mươi, một vị đang hoằng pháp tại Chùa Phật Bửu Q. 3 thành phố Hồ Chí Minh và một vị đang khai sáng và trụ trì chùa Phổ Bảo, thành phố Munchen, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Hai vị Tăng này là hai trong số ba vị học Tăng của tỉnh nhà tham học khóa I Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II tại TP. Hồ Chi Minh, niên khóa 1984- 1988 và Tiến sĩ Phật học tại Đại Học Delhi, Ấn Độ.

b/ Tiếp Tăng độ Chúng :

Với hạnh nguyện: “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, năm 1982, Hòa Thượng nhận hai vị đệ tử xuất gia đầu tiên, ban cho Pháp tự: Giác Hiệp và Giác Quảng. TT. Thích Giác Hiệp đã tốt nghiệp khóa III Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II tại TP. Hồ Chi Minh, Tiến sĩ Phật học tại Đại Học Delhi, Ân Độ năm 2004, hiện đang là Ủy viên HĐTS GHPGVN, Phó trưởng Ban Phật giáo Quốc tế Trung ương, Phó Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Lào Cai, giảng viên Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, khai sơn và trụ trì chùa Hiệp Giác TP. Hồ Chí Minh. TT. Thích Giác Quảng hiện là Ủy viên Ban Nghi lễ BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trụ trì chùa Kim Long, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Có hơn 30 vị đệ tử xuất gia khác của Hòa thượng, như: TT. Thích Giác Khánh, TT. Thích Giác Hiển, ĐĐ. Thích Vạn Hương, ĐĐ. Thích Vạn Nhẫn,  v.v…ngoài ra, rất nhiều đệ tử y chỉ của Hòa thượng đã trưởng thành và hành Đạo khắp nơi trên thế giới, như:  Thượng tọa Thích Vạn Đức – Cộng Hòa Liên Bang Đức, Thượng tọa Thích Giác Tín – Úc Châu, TT. Thích Đồng Phước – Hoa Kỳ, v.v…

c/ Tích cực đóng góp cho Giáo Dục Phật Giáo Tỉnh nhà – Bình Định

Năm 1992, Trong niềm hoan hỷ chung Trường Trung Cấp Phật Học Bình Định được thành lập tại Tu Viện Nguyên Thiều, mô hình Phật Học Viện tái hiện sau 17 năm vắng bóng (1975 – 1992), Hòa thượng được cung thỉnh giảng dạy môn Luật Học. Rất tận tụy trong sự nghiệp truyền đăng tục diệm, đào tạo Tăng tài này, Hòa thượng chưa từng mệt mỏi phút giây giảng dạy nào, kể từ đó đến nay hơn 28 năm. Kiến thức quảng lãm về giới luật và trình độ Hán học uyên thâm của Hòa thượng đã trang bị một thế hệ Tăng Ni sinh tỉnh nhà đầy đủ kiến thức tham dự chương trình cao hơn ở Học viện và du học cũng như nghiên cứu chuyên sâu Phật Pháp sau này. Những Tăng Ni từ ngôi trường Trung Cấp bước lên phương trời cao rộng và thành danh  hôm nay như Thượng tọa Thích Đồng Thành, ĐĐ. Thích Vạn Lợi, ĐĐ. Thích Nhuận Huệ, ĐĐ. Thích Hạnh Chơn, ĐĐ. Thích Nhuận Phổ, NS. TN. Minh Huệ,  v.v.. đều thọ nhận ân đức giáo dục của Hòa thượng.

d/ Góp phần xiển dương Luật Tạng – trùng hưng Chánh Pháp :

Đức Phật ân cần khai thị : “Giới Luật là thọ mạng của Phật Pháp – Giới Luật còn là Phật Pháp còn”. Thế nhưng thời nay số lượng các Luật Sư nghiên cứu chuyên sâu và thâm hành Giới Luật, khan hiếm dần. Hòa thượng là hình ảnh Giáo Thọ Sư tôn kính cho bao thế hệ Tăng Ni quy ngưỡng, tiến tu. Hòa thượng có hạnh duyên được truyền trao tinh yếu từ các bậc Cao Tăng Thạc Đức, trong đó có Hòa thượng Huyền Ấn và Hòa thượng Bình Chánh nên luôn tạo duyên trao truyền Luật Học cho thế hệ Tăng Ni trẻ. Với Thân Khẩu Ý Giáo tròn đầy, đức hạnh thanh cao, Ngài nhiều lần được Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định cung thỉnh vào hàng Thập sư Tôn chứng cho nhiều giới đàn từ năm 2000 đến 2010 tại Bình Định, đặc biệt lên ngôi vị Giáo Thọ A-xà-lê tại Đại Giới Đàn Kế Châu (2013) và Tâm Hoàn (2017),… tổ chức tại Tổ đình Long Khánh, TP. Quy Nhơn để truyền trao Giới Pháp cho các Giới Tử thăng hoa tu tập trong Chánh Pháp Như Lai.

e/ Trùng Tu cơ sở Tự Viện :

Không chỉ lo về giáo dục, mà tại trụ xứ chùa Bình An, Hòa thượng cũng dành nhiều tâm lực và nguyện lực trùng tu ngôi già lam trở thành phạm vũ huy hoàng, suốt 4 năm 2007 – 2011. Được sự gia bị của hồng ân Tam bảo và được sự ủng hộ phát tâm của những vị tín chủ thuần thành, Hòa thượng đã trùng tu ngôi Tam bảo cao hai tầng trang nghiêm và thanh tịnh, rộng rãi khang trang, đủ tiện nghi như: chánh điện, nhà Tổ, hội trường, phòng Tăng, nhà bếp, lầu chuông, lầu trống….thuận tiện cho chư Tăng cư trú, cho các lớp học Phật Pháp, thuyết Pháp, các khóa tu và khóa Lễ cho quần chúng Phật tử.

  1. Thời kỳ viên tịch :

Dù mang trong mình trái tim thiết tha với Đạo pháp với tương lai Phật giáo Việt Nam nói chung và tỉnh nhà nói riêng, muốn tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhưng thân tứ đại của Hòa thượng vẫn phải bị chi phối bởi định luật vô thường sanh, lão, bệnh, tử. Lúc10 giờ, ngày 22 tháng 03 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng 02 năm Canh Tý), trong một cơn bệnh, Hòa thượng đã xả báo thân, viên tịch trong niềm thương tiếc vô hạn của hàng hậu học và học trò đệ tử của Ngài.

Trụ thế: 74 năm

Hạ lạp: 52 năm

Hòa Thượng đã trải qua bao gian nan, thử thách trong những giai đoạn khó khăn chung của lịch sử dân tộc, xuyên suốt các quá trình học đạo và hành đạo của Hòa thượng, đó là chất liệu sống và kinh nghiệm tu tập quý giá, Hòa thượng kết tinh lại và truyền trao cho hàng hậu học. Kiến giải của Hòa thượng đã dành cho các học trò và đệ tử của Ngài những vốn liếng hành trang căn bản nhất là nguồn sống bất tận, hun đúc những vị ấy trở thành những nhân tố đóng góp tích cực cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam và cho chương trình giáo dục Phật giáo Việt Nam trong hiện tại cũng như hoăng dương Phật Pháp khắp nơi nơi. Công đức, hành hoạt và nhũng cống hiến của Hòa Thượng là nét son quý giá cho sự chuyển mình, kế thừa, phát triển của Phật Giáo Việt Nam nói riêng và Phật Giáo Quốc Tế nói chung. Ngài vẫn luôn hiện hữu trong tâm thức của đàn hậu học, nêu tấm gương xán lạn của một bậc xuất trần thượng sỹ vững chãi, thảnh thơi, giản dị, khiêm cung, tinh tấn tu học, tận tụy trong Giáo Dục và sứ mệnh Hoằng Pháp độ sinh, thật là :

Đồng Tâm Học Đạo Thông Hòa Hợp

Chơn Như Minh Chiếu Thiện Bình An


NAM MÔ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP TAM THẾ, BÌNH AN TỰ ĐƯỜNG THƯỢNG, thượng ĐỒNG hạ CHƠN, hiệu MINH CHIẾU, tự THÔNG THIỆN HÒA THƯỢNG GIÁC LINH

 

Ngày 02/03 năm Canh Tý (25/03/2020)

Môn Đồ Pháp Quyến Cung Soạn



 

 


Ý kiến bạn đọc
03/04/202006:56
Khách
" nhất là đối với những vị xuất gia lầm lỡ có một lần thay áo muốn quay về nương tựa thiền môn, Hòa Thượng luôn rộng lòng nâng đỡ từ vật chất đến tinh thần". Đọc câu này tôi vô cùng xúc động về sực cảm thông, bao dung và từ bi của Thầy đối với các pháp lữ. Họ phải thay áo vì hoàn cảnh lúc bấy giờ, cơm chùa không đủ ăn, khả năng mỗi chùa chỉ có thể cấp dưỡng cho một vài thầy, hộ khẩu không có, áp lực phải đi kinh tế mới... Thầy cảm thông, chia xẽ, trong khi một vài vị khác lại xa lánh... Tôi ở xa, chưa từng gawph Thầy, nay nhan dịp này, xin đảnh lế Thầy ba lạy. Kính.
Pham Thi
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2013(Xem: 6709)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5357)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4867)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5263)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6094)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5926)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9316)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 4991)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5290)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
21/09/2012(Xem: 9196)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Thân hình Ngài có những đặc điểm khác thường, nhất là có màu vàng, nên được vua cha đặt cho biệt hiệu là Phật kim.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567