Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên Nợ Văn Chương hay Pháp Quyến ?

21/12/201911:02(Xem: 3762)
Duyên Nợ Văn Chương hay Pháp Quyến ?

DUYÊN NỢ VĂN CHƯƠNG HAY PHÁP QUYẾN ?


NS Thich nữ Giới Hương kính,

Đọc lướt qua tiểu sử, cảm nhận một vài điểm như quen quen, lạ lạ.

Người sinh quán Bình Tuy, Lagi, Bình Thuận.

Ồ, đệ tử Sư bà Hải Triều Âm, một nữ Bồ tát hóa thân!!!

Vâng, đó là vùng đất ám ảnh tôi suốt thuở ấu niên, khi ba tôi là giám đốc Ngân hàng Nông Thôn nằm trên rẻo đất khô của cát biển, được gọi là Hòa Đa, không xa Phan Rí Cửa. Con đường quốc lộ nhỏ hẹp xuyên qua thị trấn lẻ loi xen lẫn người Kinh và người Chàm, lặng lẽ họ chung hòa nhịp sống trong thời bom đạn.

Thỉnh thoảng tôi được dự lớp học bậc trung không căn bản ở Phan Rí, thường thì phải ở nhà giữ em, đi chợ cho mẹ sai vặt. Về đêm, tôi ngủ phía nhà bếp, cách căn nhà trên bằng hành lang có mái che hẹp. Một chiếc chỏng tre và ngọn đèn dầu tù mù đủ mần mò từng con chữ. Tôi cố nhồi nhét kiến thức và vận dụng đầu óc để làm những bài toán của em tôi đem từ trường về. Vì không được học căn bản và liên tục, tôi gặp không ít khó khăn, nhưng không biết hỏi ai để nhờ chỉ dẫn.Gần khuya, mẹ đi xuống, còn thấy tôi thắp đèn tự học, mẹ vơ ngay que củi nhà bếp, đập vào đầu, mắng :- mầy phá của hao tốn dầu đèn của tao, cơm tốn chưa đủ sao?

                                                          ***

Cứ thế, mãnh đất mang hơi hướng gió biển, quanh năm buồn hàng me keo rũ bóng, Tuổi trẻ lớn lên bằng sự cay nghiệt trãi dài trên mãnh đất sỏi đá từ Huế vào tận miền Nam. Mỗi Tỉnh 2 năm gia đình di chuyển như con sâu đo túc tắc chậm chạp tiến dần, đến điểm dừng chân, tôi lại tìm chùa trú ẩn; chùa và nhà như con thoi đi lại. Ở nhà không được, về chùa cũng không yên; Lần cuối cùng khi gia đình đổi về Phan Thiết, định mệnh xô giạt tôi tách khỏi gia đình một cách phiêu bạt.

Ba giờ sáng, khuấy bình sữa cho em, viết vài dòng từ giả mang tính tuyệt mệnh, tôi lầm lũi tiến về ga xe lửa. Chiếc cầu sắt hoen rỉ chênh vênh trên hai bờ đá, lặng nhìn ánh sáng hiu hắt phản chiếu trên mặt nước, con sông dẫn ra cửa biển, từng con thuyền câu nhấp nhô ru sóng. Nhìn về thành phố chào từ biệt gia đình, một chút nhớ nhung đàn em thơ; lởm chởm đá, sinh mệnh này đủ nuôi hà bá hay giòng máu nóng sẽ lan tỏa ra khơi! Xong một kiếp người để chọn cái chết vô nghĩa? Không, không thể kết liễu đời minh giữa tăm tối, chả lẽ không còn ánh sáng vào đời! Tôi chui rào leo lên toa, trốn vào buồng vệ sinh mỗi khi thấy nhân viên soát vé.

                                                      ***

Những cơn đói khát dày vò suốt mấy ngày đêm. Lòng dạ bồi hồi can đảm, lạnh lùng nhìn bao hành khách nhộn nhịp bán buôn ăn uống. Một phố phường quá ư xa lạ, đèn màu, xe cộ, nhạc và người bảnh bao hơn quê mình nhiều quá. Ga xe lửa nằm tại chợ Bến Thành là trạm cuối cùng.Tôi ôm bộ áo quần vá chiếc mũ ngơ ngác đứng nhìn cảnh sinh hoạt thượng giới. - Cháu đi đâu? Tôi quay lại nhìn người đàn ông dong dỏng cao, - dạ cháu chả biết đi đâu nữa, - chú đợi gặp bà chủ xe, chú sẽ xin cho cháu phụ xe nhé, giờ cháu đưa chú mượn bộ đồ cầm để chú cháu ăn tối, sáng mai lấy được tiền bà chủ, chú chuộc lại cho cháu.

Vài giờ trôi qua, hình bóng người đàn ông và hy vọng dĩa cơm hay ổ bánh mỳ xuất hiện trước nửa đêm, tuyệt vọng bao phủ như bao phủ bóng đêm trên cuộc sống đứa trẻ xa lạ. Chú cảnh sát áo trắng đưa tôi ra khu chợ dân sinh tìm lại bộ đồ, cho vào đồn trú qua đêm, điện về nhà, không ai bảo lãnh, chỉ có một chỗ hồ hởi bảo lãnh – cô nhi viện Gò Vấp. Bà xơ lấy tên tuổi, đưa thẳng về chi nhánh ở Thủ Đức.

Gia đình tuy khắc nghiệt, còn có bầy em để vui chơi, chùa tuy ảm đạm thanh thoát nhưng còn có tiếng kinh hai thời công phu vơi đi sầu muộn. Còn đâu những trãi nghiệm đầu đời của đứa trẻ lên mười, đang chôn thân giữa tập thể ô tạp của trại cô nhi, tứ xứ gom về. Ngoài đồng cỏ, vài con bò nhởn nha gặm cỏ, nó biết chăng người chăn nó cũng cô đơn không có tương lai!

                                               ***

Nhân đã taọ thì duyên sẽ đến, quả sẽ trổ. Chi huynh trưởng GĐPT Chánh Thọ thăm trại cô nhi. – Em ở đâu? Mặt mũi như thế sao lại mồ côi.Cốt cách em như vậy không thể là con nhà khốn khổ..Cách em chắp tay chào chị, biết em không phải người đạo Ki Tô như mấy em ở đây./  - Dạ, thưa chị, em gốc ở chùa Ngũ Hành Sơn lúc 8 tuổi, trốn gia đình xin thầy xuất gia…/ Chị sẽ gửi em vào chùa…

Một ngôi chùa sâu hút trong hẽm của Thành phố; cảnh và người đều xa lạ, nhưng hồn như bay bổng, nơi đây không có ánh mắt hình sự của mẹ; những chiếc áo dài bạc màu khói lam từ tốn như dòng sông Hương quê ngoại; tiếng mõ hồi chuông hai thời công phu như ấm dịu cõi lòng. Lớn dần như cọng cỏ non được tưới tẩm vươn cao; thèm đi học nhưng chùa không có điều kiện, những tháng năm liên tục  Phật giáo xuống đường, việc học càng xa tầm tay mơ ước; Tu sĩ được thầy tổ hỗ trợ có điều kiện cắp sách đến trường; một đưa bé được gửi vào chùa mà không biết ai là thày Bổn sư của mình. Chùa nể uy tín chị huynh trưởng nhận cho ở mà không chọn cho một vị thầy để gửi gắm; cũng chả cần lắm khi sự sống an lạc thanh thản không bị đe dọa roi vọt. Cũng mãnh áo Nhật bình cũ, loan lỗ nhang khói và thâm kim như một chứng tích thâm niên công vụ, thế cũng đủ hãnh diện với chỏm tóc vắt tai. Khi trường Bồ Đề cầu Muối khia mở, mỗi ngày cuốc bộ từ Tân Định để được tham dự lớp thiếu căn bản; “đồng tiền là cái chi chi, dù chi chi cũng phải chi chi có tiền”. Giám thị nhắc nhỡ học phí, buộc phải thôi học.

Năm 1966, phong trào đấu tranh liên tục, chư Tăng tham gia đều bị tẩn xuất, lại một lần cánh nhạn lưng trời. Mạnh ai tự tìm đất sống. Số tu sĩ đi du học chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chiến chinh ly loạn, nhân tâm ly tán.

                                                    ***

Sau ngày thống nhất giang san, cũng là lúc lìa xa mái ấm Tam bảo. 10 năm lao động khổ sai khi tuổi đời vừa mới 28. 28 năm chưa từng cầm cuốc xẻng, 38 tuổi đời đã dày dạn gió sương nơi núi rừng sơn lâm chướng khí. Không bà con, không bạn bè, không thầy trò thăm viếng, thế mà con”bà phước” vẫn kiên cường như loài cỏ dại sống giữa rừng hoang mà chưa biết mình tội gì! Có lẽ cái tội do nhân tiền kiếp nhốt oan sinh thú!

Về đời là lúc xã hội còn khó khăn mọi mặt, chùa nào dám chứa người tù, khi màn đêm buông xuống là lúc bị kiểm tra đột xuất lúc nửa đêm. Cuộc sống luôn có lối rẽ ngoạn mục, một mái nhà mẹ cha mất sớm, một phụ nữ đơn độc giang tay đón nhận nuôi cơm khi mà họ là công nhân lương đủ tiền ăn sáng. Mỗi khuya, mượn xe đạp chở bánh dầu xuống Nhà Bè bỏ cho lò làm nước tương của chùa đủ tiền sống một ngày trai lạt; học lóm nghề bơm quẹt gas, vĩa hè bổng trở thành địa chỉ thân thương mỗi ngày cách nhà 6km với lon cơm muối đậu. Cuộc sống bắt đàu ổn định đi vào nề nếp như con trâu hàng ngày theo lối cũ chẫm rãi lê bước vô tư.

                                                     ***

Máu viết lách bắt đầu trổi dậy; tuy không được ăn học căn bản, trước 1975 từng viết cho Khởi Hành, Tiền Tuyến, Phổ Thông, Tạp chí Phương Đông của Linh Mục Hoàng Sỹ Quý. Mua được computer cũ, mần mò làm quen thao tác, tham gia Giao Điểm, rồi các Website, thỉnh thoảng vài nơi mời viết tham luận. Cái lạ, báo ngoài đời nhuận bút rất cao, nhưng không sao viết được, trong khi báo “chùa” lúc có lúc không chưa đủ tiền xăng, thế mà vui, vì ít ra mìnhh vẫn còn giữ được sợi dây liên lạc như con diều không lạc hướng vô định. Thân thế gian mà lòng trong Đạo. Hàng ngàn bài báo đủ mọi thể loại mà chưa hề nhiễm tục bụi trần, phải chăng đó cùng là hạt bụi đáp đền nợ cơm áo một thời với bá gia!

Nhận được thư mời cộng tác cho Hương Sen, cảm thấy cái gì xa lạ mà vẫn quen quen. Chả lẽ hai chữ Hương Sen từng ám ảnh đâu đó? Còn Giới Hương thì đâu thể nhầm với Hương Nhũ. Mà Ni Sư thì quen vô số, Những Ni sư trí thức rạng danh Phật giáo như Trí Hải, là người duy nhất thời bấy giờ trong giới nữ tu; sau 1990, số ni Bắc Tông và Khất sĩ thành đạt học vị cũng không thiếu. Thế tại sao, so với tuổi tác thì sau nhiều thế hệ, làm sao mình quen được! so với học vấn thì mình thuộc loại chân lấm tay bùn, so vói vị trí xã hội, một người giáo thọ Đại học, một kẻ kiếm sống bằng mồ hôi. Quê quán tuy miền Trung nhưng xa nhau dịu vợi, ấy thế mà gặp nhau trên không gian mạng cứ như Pháp quyến bao đời…Ôi thôi, sự đời không thiếu chi cái lạ, cái lạ là 6 nẽo miên viễn trôi lăn lại gặp nhau chưa từng biết mặt! Do duyên nợ văn chương hay nợ duyên pháp quyến, chỉ có chư Phật mới thấy rõ nghiệp lực trôi lăn.Đối với Sư bà, năm 1967 MM đã có mặt trên Đại Ninh, lúc ấy Sư bà chưa đến, sư cô Phùng Thăng và Phùng Khánh bỏ Vạn Hạnh lên trú một thời gian; cái tịnh thất trên dốc thác Pongour nay bị một mục sư chiếm, vì bỏ về SG từ năm 1970 và làm việc dưới trướng HT T.QĐ.

Mà thôi, thắc mắc cho lắm cũng phải bắt tay vào việc,  chập chững dò bước vào mãnh đất Hương Sen để thưởng thức mùi thơm của loài sen cúng Phật.Kính cẩn nghiêng mình trước ý chí kiên cường của một nữ tu cố cầm chắc trong tay mãnh bằng Tiến sỹ khi tuổi đời không còn trẻ, và còn tiếp tục, học mãi, vừa mở mang kiến thức phục vụ văn hóa Phật giáo, vừa trao truyền kiến thức tiêp dẫn hậu lai, trước đền ơn Phật, sau đáp nợ chúng sanh; Phải chăng đó là công hạnh của vị“Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”hơn 40 năm có mặt trên cỏi đời!

                               
                                           

Sài Gòn, cuối Năm 2019
Cẩn bái Hương Sen,
Cư Sĩ Minh Mẫn
cusiminhman@gmail.com

Cu Si Minh Man
Cư Sĩ Minh Mẫn 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6432)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9513)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4492)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4335)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6358)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5170)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7657)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6058)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12779)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567