Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Trình Của Ý

21/12/201908:41(Xem: 3486)
Hành Trình Của Ý

HÀNH TRÌNH CỦA Ý

                                                              

 

Bất cứ ai sinh ra và lớn lên cũng phải cất bước chân đi trong cuộc hành trình miên viễn của dòng đời tương tục. Thế nên, giới thi nhân tự xem mình là những lữ khách dạo chơi trên mọi nẻo đường để rồi tương phùng trong cái thế giới mộng ảo trần ai: “Lang thang từ muôn kiếp, gặp nhau từ thuở luân hồi.”

Huynh đệ tỷ muội chúng tôi ở ba miền (nam, trung và bắc) từ lâu đã: “Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, Nhật viễn gia hương vạn lí trình” trên dãi đất chữ S nước Việt, duyên đến cũng cùng nhau hội ngộ dưới mái trường Cao cấp Phật học Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh – Khóa II (1988 – 1992) thật là vui mừng biết bao!

Trải qua một chặng đường dài gần 5 năm tu học để “yêu thương và hiểu biết”, ngày mãn trường lại đến. Ai cũng tự nhận biết đây chỉ là một chặng đường kết thúc của một hành trình chưa có điểm kết. Học xong chương trình cử nhân dưới mái trường Vạn Hạnh này, anh em tự nhủ, tùy theo thiện duyên mà mỗi người tiếp tục cuộc hành đi về nẻo ý riêng biệt của mình.

Thế nhưng cuộc đời bao giờ cũng có những giá trị được xuất hiện từ trong sự vận động diệu kỳ vốn có của cuộc sống. Khi cánh cửa này khép lại thì cánh cửa kia mở ra. Trước mắt là một viễn cảnh mới đón chào, trên đầu là bầu trời mênh mông bát ngát, dưới đất là muôn vạn đường lối rẽ cho những bước chân vững chãi của mỗi người.

Thời ấy thông qua mối giao hữu hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ, cùng với uy tín của cố Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu và Hòa thượng Viện phó Thường trực Thích Chơn Thiện Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, các Tăng Ni sinh Khóa II, III, lần lượt được phép xuất ngoại đi về xứ Phật - Ấn Độ du học ở cấp cao hơn như là thạc sĩ, tiến sĩ và hậu tiến sĩ Phật học.

Có lẽ vậy, trong số huynh đệ tỷ muội hồi ấy, có sư Thích nữ Giới Hương Khóa II lên đường du học sang Ấn Độ tu học như bao người khác. Trước đó, Sư cô là người trong lớp ai cũng biết. Đó là mẫu người cần mẫn siêng năng học mọi lúc mọi nơi, tranh thủ cả giờ ra nghỉ để tìm kiếm từng con chữ (sư cô không tham dự các tour di Đạt Lạt hay tour nghỉ do trường tổ chức để có thời gian học 1 lúc hai đại học văn khoa và Phật học).

Như con ong chăm chỉ miệt mài tìm hoa - hút mật – rồi tỏa hương cho đời sau này, sư cô nhiệt tâm tinh cần hoàn thành cử nhân Phật học vào năm 1992, rồi đến cử nhân Văn chương Việt Nam vào 1994. Có một nền tảng khá vững chắc, sư cô tự tin lên đường du học ở xứ Ấn với khát khao mong cầu được tiếp thu tri thức Phật học, thực hành giáo điển của Phật. Đó là sự khởi đầu mới, cho một lộ trình mới trong cuộc hành trình bất tận đến một thế giới tự do – an lạc – giải thoát mà bất cứ ai là đệ tử của Phật cũng phải hy vọng và đợi chờ.

Mười năm sống và trải nghiệm trên đất nước Ấn Độ, xứ sở cội rễ - mạch nguồn Phật giáo, là thời gian không phải dài, cũng không phải ngắn, nhưng thiết nghĩ, có khi nó cực kỳ quan trọng cho một đời người. Chính thời gian này làm cho sư cô “lớn lên và trưởng thành” hơn, để rồi vào năm 2003, sư cô tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Delhi. Có lẽ đây cũng là thời gian, sư cô hạnh phúc nhất, chỉ chuyên tâm học Phật, tu theo Phật như sở nguyện của mình.

Chưa dừng lại đó, cuộc đời còn có nhiều lối đi và cũng khó biết trước được. Cái duyên đến vùng đất mới để hành đạo sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học. Sư cô định cư tại Hoa Kỳ vào năm 2005. Ở đất khách quê người, từ những ngày đầu tiên, sư cô cũng  tinh cần vượt khó vừa học, vừa thuyết giảng, vừa tu tập để rồi hương hoa quả ngọt cũng trổ đầy. Vào năm 2015, sư cô tốt nghiệp Cử nhân Văn tại Đại học Riverside, California và đang theo học chương trình Cao học Văn tại trường. Xem ra, dù ở phương trời nào, chí nguyện sở cầu của sư cô cứ mãi thắp lên soi sáng con đường Duy tuệ thị nghiệp như là hành trang để cất bước chân vững chãi vào đời.

Có lẽ đây là hạnh nguyện, là đặc trưng con người của sư cô trong hành trình miên viễn hướng tâm về miền đất an lạc đầy hương thơm của Giới bay tỏa, qủa ngọt của Định từ bi và ánh nắng mặt trời Tuệ giác rọi chiếu. Chính vì vậy, nhiều khi ngẫm lại, cuộc hành trình này, đối với sư cô là không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc.

Mà kết thúc sao được, trong 40 năm xuất gia học đạo cũng là 40 năm nghiên tầm kinh điển, tùy duyên hóa đạo. Năm 2000, sư đã thành lập chùa Hương Sen, Bình Chánh, Sài Gòn (Việt Nam) và năm 2010 - đến nay, sư đã khai sơn thành lập và là trụ trì chùa Hương Sen, thành phố Perris, tiểu bang Cali, Hoa Kỳ. Cho đến giờ này một mình qua lại 2 ngôi chùa, cách nhau nửa vòng trái đất, ấy vậy pháp âm vẫn vang mãi 2 đạo tràng ở 2 hai chùa xa cách nhau. Lý thú hơn nữa, sư cô còn tích cực tham gia giảng dạy tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh nữa. Có lẽ, nhiều khi Phật cũng mỉm cười, Bồ tát thì hoan hỷ, Hộ pháp thường ủng hộ, nên sư cô “tùy duyên vui với đạo” mà làm Phật sự không dừng nghỉ.

Bao nhiêu công đức, bấy nhiêu thành quả của sư cô đều được hóa hiện trong tủ sách Bảo Anh Lạc, trong đó có 40 công trình nghiên cứu về văn hóa, văn học, Phật học, âm nhạc Phật giáo đã được xuất bản và tái bản nhiều lần bằng Anh ngữ và Việt ngữ đến tay bạn đọc. Thời gian 40 năm trong dòng sống sinh tử này quả là quý báu, quý báu hơn lại có 40 tác phẩm chào đời, thật ấn tượng biết bao.

Có lẽ đây là lý do vì sao mọi người sống trong đạo, yêu mến đạo, trên hết là những đệ tử, học trò của sư cô, quý mến sư cô muốn thỉnh cầu sư cô thực thi ấn phẩm thứ 41 ra mắt độc giả gần xa với nhan đề: Tuyển tập 40 Năm tu học và Hoằng pháp của Ni sư Giới Hương, như kết thúc một chặn đường trong cuộc hành trình bất tận của người học Phật và tu theo Phật.

Bất chợt tôi nhớ như in lời dạy của thiền sư Nhất Hạnh:

“Chẳng biết rong chơi miền Tịnh độ,

Làm người một kiếp cũng không xong”

 

 

 

 

                                                      Học Viện Phật Giáo Việt Nam, ngày 18/11/2019

                                                                                                                                                                                                            TK. Thích Phước Đạt

      (minhdang0112@yahoo.com)

-Phó Viện Trưởng VNCPHVN, TPHCM kiêm

Giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Học PGVN

-Phó Viện Trưởng HVPGVN, TPHCM

                                                             Kiêm Trưởng Khoa Phật Giáo Việt Nam

                       -Ủy Viên Ban Chấp Hành Hội Nghiên Cứu Văn Học VN tại TpHCM

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7167)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4207)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4830)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5600)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3827)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5255)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5328)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12970)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11537)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567