Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dạo Niềm Về Tây

01/12/201908:46(Xem: 5259)
Dạo Niềm Về Tây


HT Thich Tanh Hai
Dạo Niềm Về Tây

       Khởi bạch Ôn, chúng con may mắn trong đời, khi được làm Môn hạ chốn Tổ Từ Hiếu- Huế, nơi gắng bó trong những thập niên 50, nơi Ôn đã từng hành điệu và hầu chư vị Tổ Sư, cũng từ đây chốn Linh Mụ Quốc Tự Ôn đã có duyên thế phát, bái Tôn Sư Thượng Đảnh Hạ Lễ làm Bậc Thầy cầu đạo, Ôn đã ôn kinh huyền nhiệm, luật tiểu thông lầu, Ôn gánh nhiều khó nhọc vượt qua.
       Tâm Ôn sáng như ngọc, trí Ôn cao như biển, hạnh Ôn lớn khôn cùng, từ bi dung tuệ của Ôn thì thâm sâu nghìn trùng. Ôn sống khỏe, Ôn vui và lúc nào việc khó điều có bàn tay Ôn là qua hết.
        Một thời Phước Duyên nơi am tranh vách đất, bàn tay Ôn tạo dựng cùng với Bổn sư, Ôn cười và dung dị, khiến cho gió, cho hoa, cho mây, cho núi lúc nào cũng nhẹ và trầm tỉnh, vốn như tánh nhiếp thâu sóng hải triều của Ôn vậy.
Đủ duyên Ôn thọ cụ túc, rồi đến Pháp nạm oanh liệt một thời, Ôn đã có những người thích tử nối tiếp ngọn lửa Thiêng Bồ Tát Quãng Đức.
Duyên lành Ôn vào lâm viên Đà Lạt tu học, trú Linh Quang chốn tổ, hay nơi nào khó có Ôn Hải, nơi nào vui có Ôn về, ai ai cũng quý và như được Ôn che chở.
         Rồi Ôn cùng với Ôn Trưởng, thường gọi là Ngài thượng Từ hạ Mãn, người huynh đệ kết tình cùng trang niên thiếu, người pháp huynh Ôn chọn để cùng tu, thửa ấy ai ai cũng gọi Ôn Trưởng và Gọi Ôn là Ôn Phó tại ngôi chùa Linh Sơn- Đà Lạt.
         Thế mà ngôi lêu thất ngày ngày tinh tươm, Ôn đã đến đó trên dưới 50 năm tròn, Ôn khiêm cung, luôn lâu chuồi cầu tiêu cho chúng, Ôn thay hoa cúng Phật làm mà không mệt, như pháp hành Huân tu của Ôn.
         Ngày mà Ôn Trưởng viên tịch Quy Tây, ai ai cũng thấy Ôn đã rơi giọt nước mắt khiến cho chúng con nghẹn cả con tin, như tình đồng Liêu, đồng huynh đệ chí tình, Ôn khóc nất ra tiếng, chắc chỉ có Ôn mới ru tình cho người pháp lữ đồng tu.
          Ôn là một trong những cây đại thụ cho xứ Sương mù Đà Lạt, các lớp học tăng Trung cấp, Cao Đẳng khoá 1 tại Đà lạt điều có dung dáng hình Ôn.
         Chắc có lẻ ai ai cũng nhớ, Ôn là cầu thủ ngoài sức trí phi thường, đá banh là phải nhắc đến tên Ôn, những bức hình Ôn Cầm chiếc bóng nhìn oai hùng và thanh cao, pháp tướng hiện lên trên từng sắc mặt, khác ngưởng và tôn quý.
         Ai còn nhớ những đêm trăng, với làng sương bay bay nơi lâm viên Đà Lạt, mà nghe Ôn thổi sáo của những bản tình ca bất hữu, như:" Một Cõi Đi Về, Du Ca, Khúc Thụy Du...!"
        Những lời ca năm ấy trong khung cảnh mây và gió Ôn làm thơ, ngâm thơ, hát và văn chương Ôn đọc thì không ai chê, mà từ hương vang mãi tận muôn đời.
        Bạch Ôn..!
       Con có duyên Ôn cho con nhiều thứ, một thứ luôn bên mình con là chiếc vòng Ôn tặng nhân lễ Đại Tường của Thượng Tọa Không Trung, Ôn và Ôn Trưởng chứng minh trai lễ, cũng là duyên con hầu trà cho Ôn.
       Rồi Ôn nói: Minh Thế con giữ vòng y nốc Ôn chú rồi đó..! Duyên con giữ để tu trì.
      Con chỉ biết dạ và cảm niệm đảnh lễ Ôn.
Một hình ảnh không bao giờ phai nhạc đó là Ôn hoan hỷ được thỉnh cầu trong các Đại Giới Đàn trong nhiều thập niên, như: Giáo Thọ, A Xà Lê, Đàn Đầu Hoà Thượng, Yết Ma, Thất Chứng Tôn Sư...! Truyền cho nhiều thế hệ chúng con quy về Tam bảo.
Con còn nhớ bài thơ Xuân Ôn đọc:
          "Xuân này xuân nữa mấy lần xuân
          Đóm lửa tình quân tắt nguội dần
          Xuân đi xuân nữa không trở lại
          Vạn đại muôn đời vẫn cứ xuân."
                               Mùa xuân năm Tân Mão
                           HT. Thích Tánh Hải cảm tác.
Có những thứ tưởng chừng như quên, nào ai biết được chúng sẻ khắc sâu mãi mãi bóng hình Ôn một lão thiền thanh bạch tinh tu, không mầm lợi danh phù hư, mà thích bình dị trong rung cảm chân tình.
Con đọc được dòng lưu bút của Ni Sư Tịnh Chánh đã lưu giữ trên dòng trang nhà Facebook, con xin phép xin trích dẫn lời Ôn...:
       "Đại Lão Hoà Thượng thượng Tánh hạ Hải , tên thân thương mà Tăng Ni Phật tử thường gọi là Ôn Phó . Ôn một đời sống giản dị , làm những công việc rất rất bình thường trong chốn già lam bởi  hạnh nguyện siêu phàm khó có ai phát nguyện , Ôn nói “ việc Ôn làm nhỏ thôi con nhưng đem lại kết quả lớn, mình nên làm việc không ai thích làm để môi trường sống được trong sạch mọi người sẽ an vui”. Ở tuổi 96 rồi nhưng Ôn rất an nhiên tự tại  bởi lẽ đời Ôn  không nắm giữ bất cứ điều gì...?...."
Thật vậy, Một tuần trước khi quy Tây, Ôn còn trò chuyện với Pháp Đệ là Ôn Lương Phương, ngài Viện Chủ Chùa Phước Duyên- Huế.
Ôn gặp Ôn Thái Thuận, Ôn Thái Nguyên, Ôn Trí Tựu,...., và nhiều học trò con cháu trong sơn môn, Ôn chứng minh trai đàn khánh tạ Ngôi Đại Hùng Bảo Điện Phước Thiện Tự, nơi Ôn được cung thỉnh vào ngôi viện chủ từ khi hoan sơ, đến khi hoàn mãn, như bóng dáng Ôn ngồi đó chứng minh cho học trò thành tựu sở nguyện rồi Ôn quya về Bảo sở liên Thuỳ.
Ôn chụp hình trong nụ cười hoan hỹ, chụp để phụng thờ tôn dung hình pháp tướng uy nghiêm của Ôn.
Ôn còn chứng minh trao pháp học nhân các Tăng- Ni sinh trung cấp- Đà Lạt khánh tuế vị niên trưởng giáo thọ tôn sư, khuyến tu và dạy bảo.
Hôm nay, ngày viên mãn những việc làm xong đã xong, việc cần làm đã làm, Ôn ra đi trong khung cảnh tinh mơ, thần khí biết trước giờ đi, nên vào lúc 6 giờ 45 phút sáng nay, 27-11 (2-11-Kỷ Hợi) tại chùa Phước Thiện, phường B’Lao, TP.Bảo Lộc - trụ thế 96 năm, 73 hạ lạp.
Ôn đi nhẹ như lông hồng, kinh sớm vừa dứt, trang kinh kép lại, tỉnh trong từng hơi thở, thu nhiếp chánh niệm và niệm Phật trước khi về ngôi nhà Bảo Thuỳ trời Tây.
Ôn đi thanh thản lắm, phước cho chúng con có Ôn trong môn hạ Từ Hiếu, Tây Thiên...., Ôn  Tỉnh táo đến lúc đi nhận biết.
 Nghe rằng: Lúc 6g00 ôn còn tỉnh, rồi lịm dần rồi ra đi bình nhiên như cánh nhạn tầng không.
Nhẹ tênh như sương giọt, như áng mây ẩn hiện vào cõi Vô Cung.

Chúng con kính dâng Lên Ôn Bài truy niệm bằng những vầng thơ chân thành, kính xin Ôn chứng minh cho chúng con.

An tường thâu nhiếp thọ thân,
Ôn về bên Phật, thập phần mãn viên.
Dung nghi tướng pháp trang nghiêm,
Thủ trí cầu Đạo, giữa niềm Cố Đô.

Phát tâm đồng ấu nên thơ,
Dòng Hương lưu mạch, gốc bờ thiện căn.
Núi Bạch Mã dọc đỉnh tâm,
Tháp Thánh Duyên Ngự, nhã tầm trang kinh.

Chuông ngân điển hạt tầng linh,
Thong dong du bước, đăng trình xuất gia.
Linh Mụ chọn lối là nhà,
Chọn ba y pháp, bảo toà huyền vi.

Bái Ngài Đảnh Lễ thọ ghi,
Trao truyền đèn pháp, kinh thi luật hầu.
Dũng năng hạnh nguyện tin sâu,
Quy về Liêu thất, niệm câu Di Đà.

Hạc vàng y pháp ca sa,
NGUYÊN bang chiếu chỉ, ái Hà kinh văn.
NGỌC từ mài dủa hằng năm,
Vun trồng trống pháp, giọng trầm hùng bay.

Khoa nghi đỉnh hạt ru say,
Đúng thời tiếp nhận, hiển bầy tục chơn.
Hai bốn xuân thọ giới thân,
Tam y nhất bát, hương đàn tấn thâu.

Duyên lành trao Tự từng câu,
TÁNH như bản thệ, Thông lầu luật hương.
HẢI từ sóng gió khiêm nhường,
Lâm viên Đà Lạt, lên đường độ tha.

Phước Duyên thửa ấy bao la,
Dòng Sông Bạch Yến, chiều tà kinh ca.
Giữ gìn ánh đạo Phong Ba,
Ngọn lữa Thanh Tuệ, tăng già vi tha.

Sáu tư năm ấy hằng hà,
Linh Quang trú dạ, thiền ca một đời.
Hạnh du hoá hát kinh lời,
An bình trúc sáo, cung trời treo mây.

Đúng thời ngự trú đêm ngày,
Linh Sơn thông hát, bàn tay hiền từ.
Dâng hoa cúng Phật Tâm tu,
Hạnh lành Cầu Giả, như như từng giờ.

Ôn trong sáng cả vầng thơ,
Ôn vang niệm Phật, đôi bờ rong rêu.
Nghịch ái cứ nghịch cô Liêu,
Ôn ung dung đứng, giữa huyền Thông lay.

Nhã thơ ca hát tuyệt hay,
Mây trôi Ôn ngắm, ra ngay tâm hồn.
Bóng Đá tuổi hạt khỏe hơn,
Như an tường trí, thái sơn nghìn trùng.

Gậy vàng một kiếp bi hùng,
Liêu phòng giờ tắc, hình dung thửa nào.
Thân quen Ôn Phó đức cao,
Giờ thì Ôn đã, quay vào bản nhiên.

Dự thời sinh tử hết duyên,
Thân tâm tắm sạch, bụi phiền ra đi.
Nhẹ nhàng niệm Phật A Di,
Đài tiền mở cửa, liên Thuỳ thượng đăng.

Chín sáu năm chẳng bận tâm,
Bẩy ba tuổi lạp, chúng Tăng nương nhờ.
Đàn Đầu Hoà Thượng đưa bờ,
Dẫn tuyền hậu thế, vào thờ Thích Ca.

Từ Giáo Thọ, nối duyên xa,
A Xà Lê thỉnh, Yết Ma thụ huyền.
Đã xong bổn phận lên thuyền,
Cố hương Cực Tịnh, dạo niềm về Tây.

         Đệ tử hậu học, tỳ kheo thích Minh Thế
Cung kính đảnh lễ Bái vọng giác linh Trưởng lão Đại Hoà Thượng thượng Tánh hạ Hải, liên Thuỳ chứng giám.
         Viết tại Los Angeles, - Hoa Kỳ.
         Ngày 30-11-2019.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8088)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4858)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37216)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6142)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5752)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8767)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]