Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu Văn Thành kính tưởng niệm Trưởng Lão Hoà Thượng Tân Viên Tịch thượng Trí hạ Quang Kính nguyện Giác Linh Hoà Thượng Cao Đăng Phật Quốc. Thành kính phân ưu HT. Thích Hải Ấn cùng môn đò pháp quyến.

12/11/201912:25(Xem: 8435)
Điếu Văn Thành kính tưởng niệm Trưởng Lão Hoà Thượng Tân Viên Tịch thượng Trí hạ Quang Kính nguyện Giác Linh Hoà Thượng Cao Đăng Phật Quốc. Thành kính phân ưu HT. Thích Hải Ấn cùng môn đò pháp quyến.

Chan Dung Duc Truong Lao HT Thich Tri Quang_1923_2019


Điếu Văn
Thành kính tưởng niệm Trưởng Lão Hoà Thượng
Tân Viên Tịch thượng Trí hạ Quang

Kính nguyện Giác Linh Hoà Thượng Cao Đăng Phật Quốc.
Thành kính phân ưu HT. Thích Hải Ấn cùng môn đò pháp quyến.



Than ôi!

Trời Cố Đô sao mờ trăng khuyết,

Đất Thành Kinh mây phủ mưa giăng

Chùa Từ Đàm cây lặng gió yên

Dòng Hương Giang sóng lan hình quyện

Thế là: Củi hết lửa tắt, nhựt vãng nguyệt lai

Tử biệt sanh ly, Ta Bà cõi tạm, Tịnh Độ quê chơn.

Sống gởi thác về, Tịch nhi phi tịch

      Nhớ giác linh xưa:

Tại làng Diêm Điền bên bờ Tây dòng Nhật Lệ thuỳ duyên xuất thế,

Ở nước Việt Nam nơi miền Bắc tỉnh Quảng Bình hiện hạnh sanh thân

Thơ ấu thông minh dĩnh ngộ tánh nết ngoan hiền, 

Lớn lên mẫn tuệ khiêm từ tâm tư thuần hậu

Gia đình mộ Phật nương Tôn sư Thích Đắc Ân học đạo

Thân phụ thương dân tựa chí sĩ Phan Đình Phùng phò nghiệp. 

Gia cảnh trong ấm ngoài êm. Sớm hôm được cha thương mẹ quý, anh em đùm bọc chở che, láng giềng bầu bạn thân gần, bà con nội ngoại khen ngợi. Bỗng dưng, vào một ngày lành, đêm giao thừa năm Bính Tý nọ, lễ vía Đức Di Lặc, túc duyên hồi khởi, nguyền lực quay về, hoa giác ngộ bừng nở, trí Bát Nhã chiếu soi, Ngài quyết lìa bỏ thế tục, tịnh hướng thiền môn Quốc Ân, nương Bổn Sư Hồng Tuyên thế phát, xuất gia học đạo, sớm kệ chiều kinh, cơm rau đạm bạc qua ngày, áo vải nâu sồng trải tháng, tấn đạo nghiêm thân, thúc liễm oai nghi, trao dồi đức hạnh, nên được thầy thương bạn mến, bổn đạo nể vì. 

     Khi vào Phật Học Viện, Ngài nhận Tôn Sư Trí Độ làm thân giáo Sư, Trưởng giả Tâm Minh làm thiện tri thức. Kể từ đó, Ngài đêm ngày miệt mài cần mẫn chăm chỉ nghiên tâm tầm bối diệp, sôi kinh nấu sử, trải qua sơ đẳng rồi đến trung đẳng, đèn sách ứng thi, điểm đạt đứng đầu, dự vào cao đẳng siêu đẳng. 

     Thế rồi lần lượt Sa Di đàn giới Đại Tòng Lâm Phật Học Viện Kim Sơn nạp thọ, được Đức Tôn Sư Đắc Quang chứng minh, Thân Giáo Sư Trí Độ truyền đăng cho pháp hiệu Trí Quang. Cũng vào năm ấy, Bổn Sư Hồng Tuyên ban cho Ngài pháp danh Nhật Quang, pháp tự Trí Hải, vâng lời Bổn Sư đảm nhiệm trú trì Phổ Minh tự dắt dìu Phật tử tu học. Tết Nguyên Đán năm Bính Tuất vía Đức Di Lặc được Tôn Sư Hồng Tuyên truyền Cụ Túc giới ban hiệu Thiền Minh. Từ đó, giới thể châu viên, đèn tâm tỏ rạng, hạnh đức sáng ngời, đạo phong rực rỡ. Sau khi tốt nghiệp Cao Đẳng Siêu Đẳng tại Phật Học Đường, thì cũng là lúc chiến tranh loạn lạc, bom đạn bủa vay, vận nước chao nghiêng, nhân sanh điên đảo, thân phụ qua đời, anh em ly tán, kẻ mất người còn, đau lòng xót dạ, Ngài một lòng thọ tang cha để đền ân, sớm hôm hầu cận mẹ nhằm đáp nghĩa. Nhằm giúp cho ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam đứng vững, Ngài đã ra công soạn thảo hiến chương. Để tiếp dẫn hậu lai, báo ân Phật Tổ, Ngài đã cùng với các bậc kỳ túc chăm lo thành lập và tham gia giảng dạy tại các Phật Học Đường Bắc Trung Nam.

   Gặp khi pháp nạn sáu ba, gia đình nhà Ngô độc tài kỳ thị mưu cầu tham vọng, ra tay tan đàn áp Phật Giáo, Tăng ni bị bắt bớ, chùa viện bị phong toả, Ngài đã vị pháp quên mình, chung lưng đấu cật cùng với các bậc thạch trụ cao tăng quyết bảo tồn ngọn cờ chánh pháp, xứng danh là bậc long tượng đầy đủ chí khí của bậc đại hùng, đại lực, đại trí, đại bi. Khi đất nước thanh bình, Ngài lui về sống hạnh độc cư, tinh chuyên tu tập, đêm ngày lặng lẽ chuyển ngữ kinh văn, sớm tối âm thầm biên dịch luật luận. Ngài đã để lại cho nền văn hoá Phật Giáo Việt Nam kho tàng pháp bảo đồ sộ làm kim chỉ nam con đường tu tập nghiên cứu, học thuật cho Tăng Ni tín đồ và cho những ai muốn tìm hiểu đạo Phật.

      Những tưởng:

 TRÍ tuệ nhiệm mầu mãi xua tan màn hôn ám dìu chúng sanh thoát khỏi bến mê

QUANG huy huyền diệu hằng rạng chiếu cõi vô minh dắt hữu tình quay về bờ giác. 

       Nào ngờ:

 Gió vô thường thổi đến, sóng sanh tử gợn xô. Đèn lưu li chợt tắt, hương mạt lị thơm lừng. Giờ Tuất năm Hợi nơi thiền thất bóng lạnh phòng không, hoa tàn nguyệt khuyết, chốn Từ Đàm già lam cây lặng gió yên. Trời Cố Đô thành nội mưa tuôn mây phủ. Bốn biển môn đồ học chúng ngậm ngùi xót thương lãnh thọ di ngôn chu toàn hiếu sự, năm châu giáo hội tăng ni bàng hoàng tưởng niệm khấp bái tiễn biệt 

      Thế là: Từ nay, môn đồ pháp quyến mất đi người Thầy khả kính, Thiền gia mất đi một thạch trụ, Phật Giáo Việt Nam khăp năm châu mất đi một bậc long tượng kỳ túc thâm uyên. Nhưng hoa đàm tuy rụng vẫn còn hương. Hoà Thượng đi vào cõi vô tung bất diệt. Gương hạnh sáng ngời và đạo phong trác việt của Ngài mãi còn rạng soi cho hàng Tăng tục trong khắp năm châu bốn biển.

     Kính nguyện Giác Linh Ngài thượng phẩm cao đăng, nơi Tịnh Độ tuỳ duyên dạo bước vân du, chốn Ta Bà thuỳ nguyện tiêu dao hoá độ.

       

 Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

 Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Nhất Thế, Nguyên Thiều Pháp Phái, Phổ Minh Môn Hạ, Huý Thượng NHẬT Hạ QUANG, Tự TRÍ HẢI – TRÍ QUANG, Hiệu THIỀN MINH, đích thị Phạm Công Trưởng Lão Hoà Thượng Giác Linh Tân Tịch.



California, 11-11-2019

Hậu Học- Thích Chúc Hiền ( Khấp lễ cẩn bút)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7146)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4195)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5590)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6191)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3809)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5241)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5317)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12957)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11520)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567