H.T Thích Trí Quang- Chính nghĩa muôn đời vẫn là chính nghĩa.
"Hòa thượng Thích Hải Ấn vừa thông báo Di huấn của Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quang về hậu sự của mình. Theo đó thì nhà chùa không tổ chức tang lễ, không báo tang, không lập bàn thờ, không có bát nhang, không đưa đám, không phúng điếu. 6 giờ sau khi Hòa thượng viên tịch thì liệm, liệm xong chuyển đến lò thiêu, thiêu xong mang về chùa làm một số lễ, mỗi lễ cũng làm đơn giản, không thông báo, không mời ai dự cả. Tôi hỏi Thiền sư Hòa thượng Lê Mạnh Thát về di huấn này, thầy Thát bảo thầy Trí Quang hết sức cẩn trọng trong hậu sự của mình, thầy yêu cầu làm đúng các quy tắc trong Kinh Niết Bàn. Người chết không làm phiền người sống, đó cũng là tinh thần của đạo Phật".
H.T Thích Trí Quang, Đức Niên trưởng Phật giáo Việt nam, một bóng cây đại thụ,vị chấn hưng Phật giáo cả nước, người dẫn đầu cho phong trào " Phật giáo, hoà bình- tôn trọng bình đẳng" diễn ra khắp Nam- Trung dưới chế độ họ Ngô. Nhận thấy sau khi Phật giáo ổn định hẳn hoi, ngài lui về ẩn cư chùa Già Lam- Gò Vấp. Thời gian này, ngài lại chọn chốn kinh đô Huế, chùa Từ Đàm. Nhưng cả đời Đức Trưởng lão lại gắn bó, hành đạo và làm nên "một Phật giáo Saigon".
CHÚT HIỂU BIẾT VỀ HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG
Hơn 20 năm trước tôi sống ở Hà Nội, có ý định xuất gia đi tu. Anh Phan Duy Nhân, khi ấy đang làm Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, người am hiểu hơn ai hết về tình hình chùa chiền sư sãi. Tôi hỏi anh ở miền Bắc có vị sư nào tốt chỉ tôi đến xin làm đệ tử. Anh lắc đầu. Không rõ cái lắc đầu đó hàm ý bảo miền bắc không có vị sư nào tốt hay là hàm ý khuyên tôi không nên đi tu. Tôi không hỏi thêm, nhưng đã bỏ ý định cạo đầu vào chùa, mà vào “tu” ở báo Thanh Niên với anh Nguyễn Công Khế.
Anh Phan Duy Nhân là nhà chính trị trung thực. Anh đã giúp cho Chính phủ có những chính sách thực sự tôn trọng tự do tín ngưỡng. Chính anh là người tạo được “những bước đi chập chững” trong quan hệ giữa Việt Nam với Vatican, đối xử với các tôn giáo một cách trọng thị, khắc phục đáng kể sự vụng về của chính quyền coi các giáo hội giống như … hội đoàn bóng đá. Anh rất dị ứng với các nhà sư “quốc doanh” cũng như việc cài cắm người vào các giáo hội. Anh đã giúp các vị lãnh đạo có cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tôn giáo và các vị chức sắc tôn giáo.
Sau khi “tu” ở Báo Thanh Niên được nhiều năm, tôi lại muốn cạo đầu vào cửa Phật và nói ý định đó với anh Phan Duy Nhân. Lúc đó tôi đã sống ở Sài Gòn. Anh Nhân đưa tôi đến gặp thiền sư Lê Mạnh Thát, bảo tôi viết về các nghiên cứu khoa học của thầy. Lúc ấy không báo nào dám viết về thầy Thát, một “cựu chính trị phạm” từng bị Nhà nước kết án tử hình về hoạt động chống chế độ, nhưng anh Nhân bảo tôi cứ viết. Và tôi đã viết loạt bài “Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” đăng nhiều kỳ trên Thanh Niên. Thầy Thát vừa là một bậc chân tu, vừa là nhà khoa học uyên bác trên nhiều lãnh vực. Thầy Thát cùng với thầy Tuệ Sỹ từng bị chính quyền thời cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bắt giam (1984), kết án tử hình, rồi được giảm án xuống chung thân và được trả tự do (1998) sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới. Thầy Thát sau khi ra tù đã được cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt rất trọng thị, hai người thường đàm đạo rất tâm đắc về văn hóa và Phật giáo. Sau này khi ông Võ Văn Kiệt qua đời, chính thầy Thát được gia đình ông mời đến làm lễ an linh và đặt pháp danh cho ông sau tang lễ. Pháp danh Trung Dân của ông Võ Văn Kiệt là do thầy Thát đặt, chuyện này rất ít người biết.
Khi tôi xin thầy Thát cho tôi làm đệ tử của thầy, thầy bảo tôi muốn quy y thì nên làm đệ tử của Hòa thượng Thích Trí Quang. Tôi nói tôi chỉ muốn làm đệ tử của thầy, còn thầy Trí Quang mặc dù tôi rất ngưỡng mộ nhưng tôi không quen biết. Thầy Thát bảo anh Phan Duy Nhân đưa tôi đến, thầy hy vọng rằng thầy Trí Quang sẽ nhận tôi.
Anh Phan Duy Nhân dắt tôi đến gặp thầy Trí Quang 3 lần, như dắt trẻ đi mẫu giáo. Tôi kính cẩn xin làm đệ tử của thầy. Lần đầu thầy không trả lời, nhưng vì thầy rất tin cậy anh Phan Duy Nhân nên rất cởi mở với tôi, trong câu chuyện thầy nói cả những “thâm cung” mà không có chút e dè. Tôi kể lại cho thầy Thát nghe, thầy Thát bảo như vậy là rất tốt. Lần sau cùng thầy cũng nói chuyện thoải mái, tôi nói tôi có thể giúp thầy ghi chép những điều thầy định viết và sửa sang các bản thảo cho thầy, nhưng thầy bảo từ trước tới giờ tất cả sách vở thầy đều tự viết, chưa bao giờ cần đến thư ký. Khi tiễn anh Phan Duy Nhân và tôi ra về, thầy bảo tôi thỉnh thoảng đến. Tôi lại kể cho thầy Thát nghe, thầy Thát rất vui, bảo như vậy là thầy Trí Quang sẽ nhận tôi làm đệ tử. Sau đó anh Phan Duy Nhân ốm nặng không đi lại được, nên tôi không có dịp nào đến thầy Trí Quang nữa. Giờ thì thầy Trí Quang đã ra Huế ở. Nghĩ đi nghĩ lại tôi tự thấy mình không nên dính mắc vào nguyện vọng làm đệ tử của thầy Trí Quang.
Tôi cuối cùng vẫn không quy y theo Phật. Nhưng sau những lần gặp đó, tôi đọc nhiều về kinh Phật và đọc lại nhiều hơn các tác phẩm của thầy Trí Quang.
Thầy Trí Quang là linh hồn của Phật giáo Việt Nam. Kế tục tâm nguyện của các vị trưởng lão tiền bối, thầy là người kiên trì nhất trong nỗ lực xiển dương Phật giáo với tư cách là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc. Đạo Phật gắn liền với truyền thống dân tộc hàng ngàn năm nay, nhưng vào thời Pháp thuộc các tăng ni phật tử hành đạo chủ yếu tại các chùa chiền, không có Giáo hội, chỉ có các hội đoàn Phật học nhưng không có hệ thống tổ chức. Nhờ nỗ lực của thầy Trí Quang mà Phật giáo mới có Giáo hội được tổ chức thành hệ thống với quy củ về tổ chức và trật tự giáo phẩm như ngày nay. Trong chống Pháp, đông đảo đồng bào Phật tử tham gia kháng chiến. Từ sau 1954, Phật giáo ở miền nam chủ trương nhập thế đấu tranh cho hòa bình, thầy Trí Quang trở thành một nhân vật chính trị lớn. Tuy nhiên, thầy không chủ trương biến Phật giáo thành quốc giáo và không bài bác các tôn giáo khác.
Thầy Trí Quang là một nhà tiên tri. Từ tháng 9-1966 thầy đã thấy Mỹ - Hoa sẽ sớm bình thường hóa quan hệ và các bên tham chiến ở Việt Nam sẽ đi vào thương thuyết, mọi cường độ quân sự chỉ là “áp lực tranh thắng” để kết thúc chiến tranh. Theo thầy Thát thì thông tin về tình hình thế giới mà thầy Trí Quang được tiếp cận còn nhiều hơn là thông tin mà ông Nguyễn Văn Thiêu tiếp cận. Có lẽ vì vậy mà từ đó thầy chỉ chuyên tâm kinh kệ, từ chối tiếp xúc tất cả các nhà chính trị thuộc mọi phe phái. Vào tháng 4-1975, khi ông Dương Văn Minh hỏi ý kiến, thầy khuyên ông “kéo cờ trắng” để tránh thảm cảnh chết chóc cho dân lành. Sau năm 1975, thầy giữ thái độ trung tính với chế độ mới, không tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam (được Nhà nước hậu thuẫn), cũng không tham gia các hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (không được Nhà nước công nhận).
HT Thích Hải Ấn (Trụ Trì Chùa Từ Đàm, Huế) bên kim quan của Ôn Trí Quang
Tìm Phật thì nên đọc chính các bộ kinh Phật, đọc các sách diễn giải kinh Phật ít khi thấy được cái mênh mông như biển cả, cái hùng vĩ như rừng núi của các bộ kinh. Nhưng đọc sách của thầy Trí Quang thì khác, đó là những cuốn sách nhiếp dẫn cho ta tiếp cận với cái mênh mông hùng vĩ ấy. Đọc sách “Ngài Huệ Năng” của thầy, tôi thấy Thiền (thầy gọi là Thuyền) hơn tất cả mọi sách vở khác giảng giải về Pháp bảo đàn kinh của Lục tổ. Đọc “Ngài La thập” của thầy, tôi thấy sự truyền dẫn của nền tảng tư tưởng Phật giáo từ Ấn Độ lan tỏa sang Trung Quốc và Việt Nam. Đó chỉ là 2 trong số nhiều cuốn sách thầy viết trước năm 35 tuổi. Đọc các bộ Kinh thầy dịch tôi thấy Phật hiện ra thân quen giản dị trong ngôn ngữ Việt. Hơn 50 năm qua thầy đã dịch hàng chục bộ kinh và viết nhiều cuốn sách (*)
Hơn 80 năm “đội Phật trên đầu”, Hòa thượng Thích Trí Quang chí thành chí kính phụng hiến cho Phật pháp. Những hoạt động chính trị của thầy cũng chỉ với một mong muốn, như thầy nói, để “trong cơn nghiêng ngửa của đất nước, ai nhìn vào Phật giáo cũng nghĩ rằng đất nước này còn có cái ấy”.
Để kết thúc bài viết ngắn này, xin dẫn một bài thơ của anh Phan Duy Nhân :
HÀNH THIỀN
(kính tặng tôn sư tôi, thiền sư Thích Trí Quang)
Tròn đầy mà rỗng lặng
Biển vô lượng thủy triều
Ôi thương đời vạn dặm
Vân du vượt suối đèo
Đường về tâm hết động
Tuyệt chiêu là vô chiêu!
Thôi hòa lòng với bụi
Thanh tịnh vầng trăng treo…
(thơ của Phan Duy Nhân)
Bài thơ được đăng trên báo Thanh Niên vào giữa thập niên đầu tiên của thế kỷ 21. Chắc không ai để ý đó là lần đầu tiên báo chí chính thống Việt Nam tôn vinh hòa thượng Thích Trí Quang.
HOÀNG HẢI VÂN
(*) Một số tác phẩm và dịch phẩm tiêu biểu của Hòa thượng Thích Trí Quang : Bồ Tát Giới, Ngài Huệ Năng, Ngài La Thập, Người Xuất Gia, Người Tại Gia, Tâm Ảnh Lục, Khởi Tín Luận, Kinh Pháp Hoa, Kinh Địa Tạng, Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, Kinh Bốn Mươi Hai Bài, Kinh Thắng Man, Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, Kinh Giải Thâm Mật, Từ Bi Thủy Sám Pháp, Cao Tăng Pháp Hiển, Tỳ Kheo Giới, Dị Tông Luận, Trí Quang Tự Truyện, v.v... Mời xem các phẩm này.
Ý kiến bạn đọc
15/11/201911:06
Thi Pham
Khách
Tôi xin Thầy Thích Nguyên Tạng không đăng bài này, vì một số thông tin tác giả đưa ra chưa có kiểm chứng, như việc Hòa Thương tiếp xúc với Ông Phan duy Nhân, tác giả xin xuất gia hai lần...
Kính
Tôi là học sinh duy nhất ở huyện Duy Xuyên, Quảng Nam đậu vào lớp đệ thất Trường Trung học Công lập Trần Quý Cáp Hội An, niên khóa 1957-1958. Cha tôi rất vui mừng nên đã thành tâm cúng tạ Tổ tiên, ông bà. Ông vui mừng vì nếu tôi không đậu thì tôi sẽ thất học do không có tiền đóng học phí khi học trường tư thục. Tôi học ở trường Trần Quý Cáp cho đến cuối năm đệ nhị, sau con bão lụt khủng khiếp năm Thìn (1964) tôi phải nghỉ học, vào Sài Gòn tìm kế sinh nhai. Là con trai trưởng tôi phải lo cho 2 đứa em ăn học nữa.
Bài viết này để ghi ơn Thầy Thích Minh Châu. Những gì Thầy dịch nhiều hơn những gì tôi có thể đọc, những gì Thầy viết phức tạp hơn những gì tôi có thể hiểu, và công trình hoằng pháp của Thầy vĩ đại hơn những gì tôi có thể đo lường. Bài viết, do vậy, chỉ là một phần những gì có thể nhìn về Thầy Thích Minh Châu, từ một người, tuy chưa bao giờ gặp Thầy trực tiếp, nhưng luôn luôn tự xem như học trò của Thầy. Và nơi đây sẽ tập trung về cách Thầy Thích Minh Châu lý giải về cửa pháp Bất Lập Văn Tự (không dựng lập chữ nghĩa, ngôn ngữ, biểu tượng, ký hiệu…). Sai sót tất nhiên sẽ có, người viết xin được thành tâm sám hối.
Hòa thượng Thích Nguyên Phước, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN huyện Diên Khánh, trú trì chùa Phước Long, thôn Trung 3, xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Theo cáo phó, do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, thu thần thị tịch vào lúc 4 giờ 30 phút ngày 4-3-2022 (nhằm ngày 2-2-Nhâm Dần) tại chùa Phước Long; Trụ thế: 72 năm, 49 Hạ lạp.
Lễ thỉnh nhục thân nhập Kim quan lúc 21 giờ ngày 4-3-2022 (nhằm ngày 2-2-Nhâm Dần). Kim quan được an trí tại Giác linh đường chùa Phước Long, thôn Trung 3, xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh.
Lễ viếng bắt đầu từ lúc 7 giờ ngày 5-3-2022 (nhằm ngày 3-2-Nhâm Dần).
Lễ phụng tống kim quan trà-tỳ tại Đài hỏa táng phía Bắc TP.Nha Trang được cử hành vào lúc 8 giờ ngày 7-3-2022 (nhằm ngày 5-2-Nhâm Dần).
Hòa thượng Thích Ngộ Khải, Chứng minh Ban Trị Sự GHPGVN thị xã An Nhơn, Viện chủ chùa Thiên An, thị xã An Nhơn
Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 03 tháng 3 năm 2022 (nhằm mùng 01 tháng 02 năm Nhâm Dần) tại chùa Thiên An, số 35 đường Lê Hồng Phong, phường Bình Định, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Di sản mà Đức Đệ Ngũ Tăng Thống để lại cho môn nhân, chúng đệ tử hậu thế, là phẩm chất trong sáng của đệ tử Phật, không khiếp nhược để khuất thân làm công cụ cho các thế lực tham vọng, không si mê để bị quyến rũ bởi hư danh, lợi dưỡng mà thế tục ban tặng. Di sản ấy là sự kế thừa công hạnh hoằng hóa của Chư Thánh Đệ tử, của Lịch đại Tổ Sư, đạo lý vi diệu dẫn đường chúng sinh tầm cầu an lạc, được công bố rộng rãi bởi Đức Thích Tôn, được kết tập thành Tam Tạng Thánh giáo, hoằng truyền trên 25 thế kỷ. Để hộ trì di sản tối thắng này, dù trải qua năm tháng đọa đày trong vòng lao lý, Ngài vẫn kiên trì sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, không xao lãng sự nghiệp phiên dịch Thánh điển làm sở y cho chánh tín khỏi bị dao động, mê hoặc bởi các ý thức tà kiến, bởi các thuyết lý điên đảo.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, bậc đạo sư kính yêu, vị cao tăng thạc đức Phật giáo Việt Nam với tầm nhìn xa trông rộng đã an nhiên viên tịch, trụ thế 97 xuân. Ngài đã và đang là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của thời đại chúng ta.
Mặc dù phải nhẫn nhịn cả đau khổ và số phận lưu đày bao thập kỷ, Ngài vẫn liên tục tuôn trào suối nguồn từ bi tâm, luôn thắp sáng ánh dương quang trí tuệ cho thế giới nhân loại được tươi mát và ấm áp.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh vĩ đại, vị đạo sư siêu tuyệt. Ngài kết hợp một cách sáng tạo và cơ chế bản địa hóa Phật giáo vào chủ lưu văn hóa chính thống phương Tây một cách tự nhiên. Đặc biệt, Ngài khéo dùng phương tiện thiện xảo trong việc chia sẻ Từ bi tâm và Trí tuệ Phật pháp với công chúng thông qua việc sử dụng ngôn ngữ văn tự địa phương, thi ca và âm nhạc. Ngài đã khéo vận dụng giáo lý Phật đà để người dân các quốc gia khác nhau trên thế giới, tắm mát trong suối nguồn từ bi và ấm áp dưới ánh dương quang Trí tuệ Phật pháp mà không chướng ngại, siêu việt tất cả cương giới.
Ban TTTT Phật Giáo Tỉnh Khánh Hòa, nhận được tin: THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THÀNH - TRÚ TRÌ CHÙA DIÊN THỌ Viên Tịch vào lúc 04giờ 45 phút ngày 02/02/2022 (Nhằm ngày 02/01 năm Nhâm Dần) tại Chùa Diên Thọ, TT Diên Khánh, Tỉnh Khánh Hòa.
Trụ thế: 69 năm Hạ lạp: 28 năm
- Lễ thỉnh Nhục thân nhập Kim quan lúc 18h00p ngày 02/02/2022 (nhằm ngày 02/01 năm Nhâm Dần).
- Kim quan được an trí tại Giác Linh đường Chùa Diên Thọ, số 226 đường Lạc Long Quân, Thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh.
- Lễ viếng bắt đầu từ lúc 20h00 cùng ngày.
- Lễ cung thỉnh Kim quan Đăng đàn Trà tỳ chính thức được cử hành vào lúc 08h00p ngày 05/02/2022 (Nhằm ngày 05/01 năm Nhâm Dần).
Sau những năm tháng an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, vào lúc 00:00 ngày 22 tháng 01 năm 2022 (nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu), Thiền sư pháp hiệu trước Nhất sau Hạnh, Niên Trưởng Trú trì Tổ đình Từ Hiếu đã thâu thần thị tịch tại Tổ đình, nơi Người đã xuất gia cách đây tám mươi năm.
Cố trưởng lão Tịnh Đức thế danh Tôn Thất Toản, sinh ngày 01/08/1944 tuổi Giáp Thân tại Hương Trà, Thừa Thiên Huế.
Gia đình dòng tộc Hoàng gia, thuộc Đệ bát hệ, Đệ nhị phòng, dòng dõi Chúa Nguyễn Phúc Thụ (Túc Tông Hiếu Đinh Hoàng Đế).
Thân phụ là ông Tôn Thất Nhường, sinh năm 1897, mất năm 1982, thọ 85 tuổi. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Bàng, sinh năm 1903, mất năm 1963, thọ 61 tuổi.
Gia đình có 5 anh em, Ngài là người con út. Xưa, gia đình ngụ tại Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Sau vào ở tại phường Thạc Gián, Đà nẵng.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.
Kính