Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùa A Di Đà, vùng Canley Vale. Tiểu bang New South Wales. Australia.

30/09/201910:07(Xem: 11202)
Chùa A Di Đà, vùng Canley Vale. Tiểu bang New South Wales. Australia.

chuadida-10CHÙA A DI ĐÀ

52 đường Bareena thuộc vùng Canley Vale. Tiểu bang New South Wales. Australia.

HT Thích Nguyên Trực Khai sáng

Ngày mùng 8 tháng 10 năm Canh Thìn(nhằm ngày 3 Tháng 11 năm 2000)

Email:[email protected],[email protected], [email protected]: chuaadida.com

 

 

 

Từ bao đời nay, đạo Phật đã trở thành một tôn giáo truyền thống của người Việt. Dù sống ở đâu, hình ảnh một ngôi chùa thân thương luôn gợi nhắc người Việt hướng về cội nguồn. Vì vậy phần lớn chư Tăng Ni Việt Nam ở nước ngoài dù khó khăn trăm bề, đã noi gương chư Tổ kiến lập tự viện,để những ngôi chùa này không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của kiều bào, mà còn là địa chỉ tâm linh, là nơi giác ngộ tinh thần, là nơi gửi gắm tâm hồn của những người con xa xứ, cũng là danh lam thắng cảnh của nước sở tại và đặc biệt là nơi giữ gìn nét văn hóa truyền thống, bảo tồn tiếng Việt đối với những người con sống xa Tổ quốc.

ChùaA Di Đà do chúng tôi(Hoà Thượng Thích Nguyên Trực) thành lập, từ năm 2000 nằm trên tầng 2 của khu vực nơi để cầu nguyện cho những người quá cố (gọi là nhà quàn).Do một người Phật tử gốc ‘Ý’ Italy phát tâm hỷ cúng cơ sở của Ông để lập nên ngôi tự viện vào ngày mùng 8 tháng 10 năm Canh Thìn(nhằm ngày 3 Tháng 11 năm 2000), tại địa chỉ 113 Cabramatta Road vùng Cabramatta tiểu bang New South Wales Australia(Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan).

Nhớ lại, Đầu thập niên 1980 sau cái mốc thời gian 1975 Quốc biến Dân vong, làn sóng dòng người tìm đất sống, người tu sĩ như chúng tôi cũng không ngoại lệ, cùng với dòng người Việt vượt biển tỵ nạn và  ở tại trại tỵ nạn Philippine,nhân duyên được Hoà Thượng Bảo Lạc bảo lãnh chúng tôi tới đại lục Úc Đại Lợi.

Vào đầu tháng 4 năm 1989 Chúng tôi chính thức được định cư tại quốc gia Úc Đại Lợi “Australia” tiểu bang New South Wales, thành phố Sydney, chúng tôi đã đến ở tại chùa Pháp Bảo (Sydney) do Hoà Thượng Thích Bảo Lạc Trụ Trì.Lần đầu tiên chúng tôi hội nhập vào một đất nước xa lạ, đất nước đa văn hóa, đa ngôn ngữ, đa chủng tộc và mọi sinh hoạt đều khác biệt với quê hương Việt Nam.

Trải qua 11 năm chúng tôi ở tại chùa Pháp Bảo cùng với Hoà Thượng Thích Bảo Lạc, duy trì nếp sống tu hành của một Tăng sĩ Phật giáo,cùng nhau hướng dẫn Phật tử tu học, kết nối đồng hương xa quê với nhau, cùng nhau giữ gìn truyền thống văn hoá Việt, góp phần xây dựng đạo đức, lành mạnh nhân sinh, an bình xã hội, cho thế giới gần nhau, nhân loại hòa bình.

Hồi tưởng lại đời tu sĩ chúng tôi có những bước ngoặc lớn đã thay đổi cuộc đời tu hành đến ngày hôm nay. Dấu ngoặc thứ nhất lúc còn ấu thơ vào năm… tuổi đã xa gia đình xuất gia đầu Phật, và dấu ngoặc thứ haivào năm…tuổi chính quyền CS ưu tiên cho học tập cải tạo trại giam A30, sau đó xa xứ đến đất nước Úc tu tập hành đạo, nhưng chúng tôi luôn đâu đấu trong lòng muốn đem đạo Pháp phát triển rộng rãi tại Úc Châu, cho nên trong vòng 11 năm ở tại ngôi chùa Pháp Bảo, nhưng trong lòng luôn phát nguyện vànguyện cầu Tam Bảo gia hộ có một nơi chốn để kiến tạo và xây dựng thêm một ngôi chùa Việt Nam, vừa là nơi tu hành vừa là nơi để người con Việt xa xứ về sinh hoạt tu học. Nhưng quả thật không đơn giản như những gì mình nghĩ. Khi mà chúng tôi đến xứ sở này với hai bàn tay trắng, một gói hành lý xách tay hết sức khiêm nhường, và xa lạ về tất cả mọi mặt: ngôn ngữ, văn hóa và mọi sự sinh hoạt ở một quốc gia phú cường này. Bằng mọi quyết tâm, vượt qua mọi thử thách, một thời gian khá dài chúng tôi cùng một số Phật tử tín tâm cũng kiến lập được một nơi để sinh hoạt về tâm linh.

Vào ngày mùng 8 tháng 10 năm Canh Thìn, nhằm ngày 3 Tháng 11 năm 2000, chính thức thượng bảng hiệu Chùa A Di Đà tại địa chỉ 113 Cabramatta Road vùng Cabramatta tiểu bang New South Wales, thuộc hệ thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan và tên tiếng Anh là “The United Vietnamese Buddhist Congregation of Australia Incorporated”. Với danh xưng tôn hiệu của Đức Phật cõi Tây phương: “Vô lượng quang, Vô lượng thọ, Vô lượng công đức”. Bên trong chính điện, các Phật tử hay du khách đều ấn tượng với những bức tượng đặt trong Tam bảo với khuôn mặt, hình dáng hiền hòa, chất phác mang đậmvăn hoá dân tộc Việt Nam.

chua-a-di-da-sydney-6-
(Chùa A Di Đà năm 2000: 113 Cabramatta Road
)

Vào đầu tháng 12 năm 2000, nhânngày Lễ vía Đức Phật A Di Đà chúng tôi đã tổ chức lễ khánh thành An vị Tôn Tượng, được tổ chức trang nghiêm trọng thể với trên 30 vị chư Tôn đức Tăng Ni khắp các tiểu bang tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, thuộc Giáo hội Thống nhất Hải ngoại đồng về tham dự. Sau đó vào tháng 4 năm 2001, chúng tôi nhận trách nhiệm của Giáo hội tổ chức cuộc họp báo Hội nghị của Giáo hội và Văn phòng II tại Hoa Kỳ được tổ chức tại Chùa A Di Đà.


chua-a-di-da-sydney-5-

Chánh điện Chùa A Di Đà năm 2000: 113 Cabramatta Road

Chúng tôi tưởng rằng như thế hẳn là ổn định nơi tu học và hành đạo rồi, nhưng không ngờ chỉ một thời gian ngắn do sự điều hành thương nghiệp thua lỗ của Ông Tony nên bị ngân hàng phát mãi. Cơ sở nơi chúng tôi sinh hoạt cũng bị ảnh hưởng và chúng tôi chờ thông báo chính thức sẽ phải dọn đi hay không dọn đi... và biết đi đâu bây giờ? Vì chúng tôi đâu có sự chuẩn bị trước. Thật là một vấn đề nan giải cho bản thân chúng tôi, rồi việc gì đến cũng phải đến. Sau khi không thương lượng được với ngân hàng, chúng tôi nhận tin chính thức đó là vào Thứ Ba, 6 Tháng 11 năm 2001, cơ sở này đã bị đấu giá ‘auction’ để trả nợ ngân hàng.

Vào Thứ bảy ngày 10 Tháng 11 năm 2001, Chúng tôi báo tin một số Phật tử đến Chùa phụ giúp di dời. Hôm đó là ngày bầu cử Chính quyền Liên bang, thế là cuộc đời Tăng sĩ của chúng tôi có nhiều diễn biến bất ngờ và đột ngột, vì chúng tôi không bao giờ nghĩ đến điều tệ hại này, làm chúng tôi phân vân và trăm mối tờ vò, rồi tự hỏi: Đi và ở đâu bây giờ? Thuê nhà kho chứa đồ? Hay tìm nhà Phật tử gởi đồ? Rồi không biết cuộc đời Tu sĩ của tôi phiêu bạt về đâu?

Cũng trong thời gian này chúng tôi nhận được lời mời về Tiểu bang Nam Úc vì có một ngôi Chùa họ thỉnh chúng tôi Trụ trì, cách nơi chúng tôi sinh hoạt gần 1.500 cây số. Lúc đó chúng tôi cũng muốn rời Sydney để đi về nơi đó nhưng lại có nhiều diễn biến bất ngờ.Với tâm nguyện vì sự phát triển của đạo pháp, vì mang lợi lạc đến cho tất cả mọi người, chúng tôi nhận thấy được rằng,hôm nay hội đủ túc duyên, chúng ta cùng đến một hòn đảo rất là yên tĩnh. Chúng ta có túc duyên cùng hít thở chung bầu không khí nơi đây, cùng ăn, cùng uống, cùng kinh hành. Nếu không có duyên sâu đời trước thì chưa chắc chúng ta ngồi đây được yên ổn để tu tập.

Căn cứ vào lời nó của Ông Albert Einstein: “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo này sẽ vượt trên một Thượng Đế được nhân cách hóa, không còn có những giáo lý hay thần học. Một tôn giáo vừa cho Thiên nhiên vừa cho Tâm linh con người, dựa trên sự chiêm nghiệm mọi sự thể trong thiên nhiên trong tâm linh, hài hòa hợp nhất. Phật giáo đạt đến điều nói trên. Nếu có một tôn giáo nào thích nghi được với nhu cầu hiện đại của Khoa học thì tôn giáo đó phải là Phật giáo”.

Với sự nhiệt tâm tha thiết của một số Phật tử vì Đạo pháp và cảm mến cá nhân chúng tôi không muốn chúng tôi rời tiểu bang Sydney. Những Phật tử này đã bàn và quyết tâm tìm mua một cơ sở để xây dựng lại ngôi Chùa. Thế là thầy trò chúng tôi đi tìm và sau đó đồng ý mua lại ngôi nhà ở số 52 đường Bareena thuộc vùng Canley Vale Tiểu bang New South Wales, cách nơi chốn cũ không xa lắm, chúng tôi nhận thấy địa điểm này rất thuận lợi để bà con Phật tử về sinh hoạt và tu học: địa điểm nằm giữa hai vùng Cabramatta và Canley Vale, cũng gần trạm xe bus và trạm xe lửa của hai vùng này, đi bộ đến Chùa rất thuận tiện.Và nơi đây đã trở  thành nơi lý tưởng để mọi người về tu học, chế tác niềm hỷ lạc, bình an và hài hoà trong đời sống.

 

chuadida-01chuadida-02chuadida-03chuadida-04chuadida-05
Toàn cảnh Chùa hiện nay

Thầy trò chúng tôi đã ký giấy tờ hợp đồng và mua lại nơi này vào ngày mùng 8 tháng 10 năm Tân Tỵ nhằm ngày 22 tháng 11 năm 2001. Sau thời gian hoàn tất mọi thủ tục mua bán giữa hai bên. Ngày 18 tháng giêng năm Nhâm ngọ nhằm ngày 1 tháng năm 2002, chúng tôi lấy chìa khoá chính thức vào lúc 3 giờ 50 phút chiều.

Chúng tôi thiết nghĩ rằng đời người xuất giakhông phải khi sinh ra là bắt đầu cho một cuộc sống, và mất đi là kết thúc vĩnh viễn cuộc sống ấy. Có một chuỗi liên kết trùng trùng nối tiếp nhau của những đời sống, những cảm giác, những tư tưởng, những hành nghiệp và tri giác. Cũng như có một trăm mùa xuân mà trong giới hạn một đời người, chúng ta có thể được trải qua. Các mùa xuân có vẻ tờ tợ như nhau, nhưng thực ra thì rất khác, là do cảm nhận của mỗi chúng ta, thay đổi theo hoàn cảnh, tâm trạng và tuổi tác. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, mọi thành tựu đời sống hạnh phúc hay hiện tượng khổ đau con người đều do tâm tạo. Đó là biểu hiện tính chất vận hành nhân quả khách quan mà đức Phật đã dạy:“Là người tu học chân chính cần phải luôn sáng suốt để hiểu rằng, đến với đạo Phật là học theo gương hạnh của Phật, còn những ai đi lệch ra con đường chánh pháp, chúng ta không nên vì vậy mà đau khổ hay bỏ mất sự nghiệp tu hành rồi đánh mất tài sản tâm linh quý báu của mình”.Sống đúng với tinh thần của đạo Phật, nối tiếp bước đường tu học hoằng pháp của các bậc tổ sư để bảo vệ và duy trì đạo pháp”.

 

 

 chuadida-06

Chánh điện Chùa A Di Đà hiện nay

 

Sau đó tiến hành bản vẽ xây cất ngôi Chánh điện gởi đến hội đồng thành phố Fairfield, kéo dài gần 8 tháng và chính thức khởi công xây dựng ngày 1 tháng 9 năm 2002.

Vào tháng 3 năm 2003 ngôi Tự viện Chùa A Di Đà hoàn chỉnh về mọi vấn đề, chính thức sinh hoạt Tôn giáo. Buổi lễ cầu nguyện đầu tiên của thầy trò chúng tôi hôm đó vào ngày Chủ nhật mùng 4 tháng 2 năm Nhâm ngọ nhằm ngày 17 tháng 3 năm 2002.

So với các ngôi Chùa Việt Nam tại Úc, Chùa A Di Đà rất khiêm tốn, ngôi Chánh điện tuy không lớn lắm nhưng trang nghiêm, thể hiện cảnh tịnh độ nhơn gian và mọi người đến thăm viếng lễ Phật cảm thấy tâm hồn an lạc, khi cảm nhận mọi cảnh vật xung quanh ngôi chùa này. Nhất là chiêm bái Tượng Bồ tát Quan Âm trước Chùa cảm thấy tâm hồn lắng động, thư thái và thiền vị, quên đi những phiền muộn bận rộn trong đời sống thế gian.

 

 chuadida-03

Đài Quan Âm, Chùa A Di Đà hiện nay

 

 chuadida-09

(Tăng đoàn Giáo Hội Phật Giáo NSW Bố Tát định kỳ luân phiên hàng tháng tại Chùa A Di Đà).

 

Chùa A Di Đà nơi này chính thức sinh hoạt về Tôn giáo thuần túy, hướng dẫn Phật tử tu học và lễ công cộng vào mỗi buổi sáng thứ 7 hàng tuần.  Ngoài khoá lễ Sám hối 1 tháng 2 lần; và hàng đêm vào lúc 19g00; đều có khoá lễ hành trì tín đồ Phật tử tham gia tụng niệm khá đông.

Trong năm, ngoài 2 Đại Lễ: Phật Đản vào Tháng 4, Vu Lan vào Tháng Bảy, còn tổ chức các buổi lễ khác như: Lễ Vía Phật A Di Đà 17/11, Lễ Vía Bồ Tát Quan Âm 19/2, 19/6, 19/9, và Tết Nguyên Đán, vân vân…

Phật môn an nhẫn thả tu hành

Tăng già hòa hiệp đạo xương minh
Tứ chúng cộng tuyên hưng chánh pháp

Xứ xứ âu ca kiến thái bình.

Dịch nghĩa:

Cửa Phật tùy duyên mãn tu hành

 Tăng già hòa hiệp đạo hiển minh

 Bốn chúng hết lòng bồi chánh pháp

Xứ xứ hân hoan rộn thái bình.

Từ lúc thành lập, ngôi chùa vẫn sinh hoạt đều đặn cho đến nay. Tuy không phô trương nhưng sinh động và phồn thịnh,tín đồ Phật tử đến sinh hoặt tu học rất lục hoà, an lạc thấm tình đạo vị.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14843)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8477)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8569)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10232)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14142)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8312)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16997)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11921)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16642)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12780)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]