Tu Viện Vạn Hạnh Thủ Đô Canberra, Úc Châu Khai Sơn & Viện Trưởng : HT Thích Quảng Ba
Tu Viện Vạn Hạnh do HT Thích Quảng Ba tạo lập tại thủ đô Canberra vào đầu năm 1984, chỉ vài tháng sau khi Ngài rời trại tỵ nạn Pulau Bidong / Sungei Besi Mã Lai [rời từ VN sau chuyến hải hành 7 ngày đầy cam go, nguy biến, cập bờbiển Kota Baru,Malaysia vào sáng sớm 22/3/1983] đến định cư tại Úc ngày 1/11/1983. Trong 5 năm đầu tiên, với rất nhiều khó khăn vì quá ít Phật tử và lối sống bình an của dân cư Úc rất khó chịu với nhà hàng xóm nào đông đảo, ồn ào, nhất là vào buổi sáng sớm, Vạn Hạnh đã phải di chuyển “chùa” [nhà 3-4 phòng tạm mướn để ở & tổ chức mọi sinh hoạt] tổng cộng 6 lần, chỉ là những căn hộ cũ kỷ, nhỏ hẹp thuê dài hạn tại các suburb vùng Bắc trung tâm Thủ đô: Lyneham, Kaleen, Campbell, Kaleen, Downer, O’Conor. Ở đó, mỗi Chủ Nhật, độ 7/8-10/15 Phật tử về tụng niệm, nghe giảng Phật pháp, thỉnh thoảng tu Bát Quan Trai, tất cả vui vẻ làm công quả những gì cần thiết. Ba năm đầu, có 4-5 chú Huynh Trưởng GĐPT từ Bidong định cư Úc xin theo về ở Chùa, từ từ 1985-87 có các vị xin xuất gia, và vài chư Tăng được chùa bảo lãnh qua Vạn Hạnh, nên thiếu chỗ ở, các em từ từ xin ra ngoài.
Chỉ trong năm đầu 1984-1985, Thầy đã thành lập được Đoàn Thanh Niên Phật tử Thiện Minh tại Sydney và Đoàn TNPT Vạn Hạnh tại Canberra. Năm sau, nhân Phật đản 1985, một số Trưởng TNPT tách ra xin lập thêm Gia Đình Phật tử Vạn Hạnh [mới có chu niên 34 vào mùa Phật đản 2019 rồi]. Và kéo theo GĐPT là Lớp Việt ngữ Vạn Hạnh, chùa tuy chật, vẫn tìm ra khoảng trống để các Cô giáo dạy cho các em Đoàn sinh VH a.b.c. vỡ lòng trở lên, suốt 5 năm đầu. Trường tạm nghỉ khi Cộng Đồng chính thức mở Trường Việt ngữ, hình như 1989.
Từ đầu năm 1985, chùa chính thức lập Nhóm Bảo Trợ Tỵ Nạn Dông Dương [Indochinese CRSS, Community Refugees Resettlement Scheme], và trong 7 năm, đến 1992, tổng cộng đã bảo trợ và bảo lãnh gần 400 người tỵ nạn Việt-Miên-Lào đến dịnh cư yên ổn tại Canberra. Sở Di Trú ACT cũng tài trợ để chùa thuê một văn phòng xã hội, cũng như tuyển thuê một nhân viên xã hội [social worker] giúp đỡ mọi nhu cầu định cư cho những người mới đến.
Năm 1987, theo đơn xin dưới đạo luật Church Land Leases Ordinance 1921, Hội Phật Giáo Việt Nam Thủ Đô Canberra do hai Thầy Quảng Ba và Thầy Quảng Trừ làm Chánh/Phó Hội Trưởng đại diện thương lượng, đã được Department of Territories thuộc chính phủ Liên Bang cho thuê vĩnh viễn một miếng đất rộng 16,650m2 giá tượng trưng $0.10/năm, tại Lyneham, phía Bắc nội ô thủ đô [Canberra Inner North]. Năm 1988, từ hai bàn tay trắng lúc mới đến, HT Quảng Ba cùng chư Tăng Ni và các Phật tử thuần thành đã quyết định tiến hành Lễ Đặt Đá để xây cất một Trung tâm Tu Học Phật Giáo trên mảnh đất này. Đó là một ước mơ mà quý Thầy đã ấp ủ từ lâu. Cùng lúc, vừa phải tiếp tục củng cố tổ chức Chùa và Hội còn đơn sơ, vừa lo tu tập bản thân, vừa tự học thêm Anh ngữ, nhất là lo việc hoằng pháp [từ 1985-1995; theo thỉnh cầu của các nơi; thầy Quảng Ba thường phải có 2-3 chuyến du hành xa sang Âu châu và Bắc Mỹ, đễ giảng pháp cho các Hội, Chùa chưa có Tăng Ni, mỗi lần từ 2-4 tuần], từ thiện, cứu tế [cũng từ 1985-1992, 8 năm ròng rã, mỗi năm 1-2 chuyến quyên góp và mang đi ủy lạo, cứu trợ an ủi, giảng pháp cho nhiều chục nghìn thuyền nhân tại các Trại Tỵ Nạn ở Đông Nam Á], nặng nề nhất là suốt 20 năm 1988-2007, Thầy phải tự nguyện bôn ba Úc-Á-Âu-Mỹ để vận động cứu giúp Giáo Hội quê nhà, vừa lo tổ chức tu học cho Phật tử địa phương và các nơi v.v…
Công trình xây cất Tu Viện Vạn Hạnh từ đó đã trải qua các giai đoạn xin được ghi chú rất sơ lược như sau:
(A)- Năm 1988-89khởi đầu xây cất:
[1] Phật đài lộ thiên đức Bổn Sư cao cả tòa đứng bát giác hình 8 cánh sen, tất cả 6,5m và
[2] Tu viện Vạn Hạnh 400m2, với chánh điện tạm[khi Chánh điện chính hoàn tất, thì đây sẽ là Báo Ân Đường], thư viện/khách, 2 văn phòng, phòng sinh hoạt Phật tử, 4 phòng Tăng, 2 phòng Ni, nhà bếp, nhà kho, nhà tắm, vệ sinh v.v…
(B)- Năm 1993 chùa quyên góp xa gần để xây được
[3] Tượng đài lộ thiên Quán Thế Âm cao 6,5m, hồ sen 64m2, khu vườn cảnh với 4 bồn hoa, khoảng 300m [do đạo hữu Võ Đình Khoa và các bạn thực hiện trong 6 tháng];
(C)- Năm 1997-2001 vay bank và mượn của hang trăm Phật tử khắp Úc châu, để xây
[4]Đại Bi đường[Karuna Vegie House] và
[5-6-7-8-] Cư xá La Hầu La với 4 dãy đều 2 tầng với 52 căn hộ chung cư dành riêng dân Úc nghèo mọi sắc tộc, mọi lứa tuổi thuê ởvà chỉ trả mức 75% giá thị trường; tất cả 5 căn 4-8 nầy với hơn 1,500m2;
(D) Năm 2002-2005 xây
[9] Ni xá Diệu Không 420m2 và
[10] Tăng xá Bửu Quang 480m2, đều 2 tầng, có thể ở được tối đa, nếu cần: 25 sư cô và 30 thầy;
[11] nhà Kho chừng 120m2, nằm giữa Ni xá và Cư xá La Hầu La, bloc D,
[12] Green House [cấu trúc bán kiên cố, là nhà trồng rau quả mùa Hè & Đông] chừng 180m2;
[13] Tam Quan Bất Nhị cao 11m, rộng 5m, dài 25m với 4 tầng mái cong và hoa văn truyền thống, và
[14] Tháp Hồng Chung Linh Cảm cao 9m, rộng 64m2, với vườn cảnh t.c. chừng 100m2. Trong tháp treo một quả chuông cao 3m, đường kính vành 1.8m và nặng 4000kg.
[E] Từ 2008 đến nay 2019, tức đã suốt 11 năm trường trải, đồ án mới và cuối cùng của dự án đã và đang tiếp tục xây dựng các công trình sau:
(15) Thư viện Long Thọ[Nagarjuna Library] 2 tầng, 610m2 gồm cả Trung Tâm Xã Hội-Từ Thiện Văn Lang và đoàn quán GĐPT,
(16)Phật Học Viện Giác Tánh[Buddhahood Monastic College] 2 tầng với gần 700m2, với tầng trên là Hội nghị đường Thiện Minh rộng 277m2, tầng trệt với 3 giảng đường, 2 văn phòng, phòng nghiên cứu, phòng thu hình thu âm, và các tiện nghi cư trú dài hạn cho 2 Giáo thọ,
(17) một ngôi Bảo Tháp Hòa Bình Thế Giới [World Peace Pagoda], cao tất cả 27m với tầng trệt vuông vức 16m x 16m và 7 tầng tháp lục giác, đều có thang bước lên đến tầng chót;
(18) Quan trọng nhất là Đại Điện Bát Nhã[Prajna Main Temple/Shrine], 2 tầng mỗi tầng hơn 1,000m2: tầng lầu là Phật điện, bao lơn, hành lang, sân đón, chung cổ lâu, Tổ đường, Thiền đường, Phương trượng; và tầng trệt có:Hội trường Huyền Quang cũng là Giảng đường Thiện Minh đa dụng [có thể ngồi được 700 người], Khách/Trai đường, phòngsinh hoạt chúng Tại gia, và khu Vệ sinh công cộng.
Tính từ 2008-2019 [phải ngưng xây cất từ 2010-2015 vì cạn tài chánh suốt 5 năm], riêng 4 công trình lớn 15-16-17-18 trên đây chỉ mới hoàn thành được: 5%/ 10%/ 75%/ 80% cho 4 công trìnhtheo thứ tự trên. Giáo Hội Canberra có chút hy vọng là 4 công trình nầy sẽ hoàn tất vào năm 2022-23, nếu việc gây quỹ và vay mượn thêm vài triệu nữa để giai đoạn kết thúc mới được suông sẻ. Tức là sẽ cần trải qua ít nhất là 15năm cho4 công trình nầy, mới có thể được xây hoàn tất. Ngân khoản đã và sẽ cần chi trả là hơn 10 triệu Úc kim. Đó là nhờ trong quá trình xây cất, đã và sẽ tiết kiệm được tối thiểu 5-8 triệu Úc kim, nhờ: 1- xin Bộ Di Trú đồng ý cho Vạn Hạnh bảo lãnhđưa qua Úc mỗi 12 tháng khoảng 10 anh em làm công quảcho công trình xây cất, trong các ngành: mộc, sắt, hồ-xây, hoa văn.., 2-Thầy trò cố gắng tự quản lý gần hầu hết mọi việc trong công trình, tuy luật định vẫn phải thuê 1 licensed builder, 1 architect, 1 building certifier, 1 licensed plumber & 1 electrician.
Qua bao nhiêu gian nan, thử thách, ngày nay mảnh đất hoang sơ không điện nước ban đầu 1987 lúc mới nhận đất, đã chính thức trở thành “Tu viện Vạn Hạnh”, hay một Trung Tâm Tu Học Đại Thừa Phật Giáo, có kiến trúc hài hòa giữa những nét cổ kính Đông Phương và Tây Phương hiện đại, là một trong những trung tâm Phật Giáo lớn nhất tại Úc, và có tầm vóc đáng kể trong số gần 1,000 ngôi Tự viện Việt Nam toàn hải ngoại.
[Ghi chú: Do phải giới hạn số trang cho mỗi bài dành cho từng Chùa thành viên Giáo Hội để được đăng trên Kỷ Yếu Đại Hội kỳ VI, nên bài nầy chỉ sơ lược về các bước phát triển về cơ sở, tức tiến trình xây cất suốt 30 năm qua, nên bút giả không thể thêm vào bất cứ các hoạt động đa dạng của Tu viện Vạn Hạnh vậy.]
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên.
Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo.
Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên).
Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp.
Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016)
Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017)
Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016)
Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017)
Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
Trong Cây Có Hoa
Trong Đá Có Lửa
Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
“Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006.
Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng”
“Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa),
Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)”
Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.