Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Day 02: Lễ Mừng Khánh Tuế 70 tuổi Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc

28/06/201921:50(Xem: 14763)
Day 02: Lễ Mừng Khánh Tuế 70 tuổi Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc

Ngày thứ hai, thứ Sáu ngày 28 tháng 6 năm 2019

 

Công Phu khuya:

 

Sáng nay, giờ công phu thứ hai của những ngày Đại Lễ tại Tổ Đình, quý chư Tôn đức Tăng Ni quang lâm Chánh điện để thọ trì thời công phu sáng, quý Phật tử đang hiện diện tại Tổ Đình cũng đã vân tập từ rất sớm.

Oai lực của Đạo Tràng tạo nên một âm hưởng vô cùng mạnh mẽ, tiếng hô canh tọa thiền vang lên trong không gian còn tĩnh lặng, những chiếc huỳnh đang ngồi uy nghi dưới ánh điện nhạt nền hồng, trên Bảo tọa Đức Như Lai đang tọa vị cùng những tôn tượng Phật Bồ Tát, khói trầm nhẹ lan tỏa, khung cảnh chốn thiền tịch tĩnh mang chút u huyền trầm mặc.

 

Giờ xướng lễ công phu được vang lên, tiếng tán tụng hòa vang tạo âm thanh cực kỳ thanh thoát, cả đạo tràng cùng trì tụng Thần chú Lăng Nghiêm trầm hùng, đạo hạnh, năng lực từ bi của quý Ngài như tác động đến cả ngôi Tổ Đình trong an tịnh.

 

Sau thời công phu sáng, Tổ Đình như rộn hẳn lên, những làn gió nhẹ đang lùa vào trong từng khung cửa sổ, những cây cối trong chùa cũng như vui nhộn hơn bình thường, đang vẫy chào chư Tôn Đức cùng quý quan khách và Phật tử đang lần lượt về Tổ Đình mỗi lúc càng đông. Trong không khí đó, tất cả những ban phân công cho những ngày Đại lễ như khẩn trương hơn.

Có lẽ trong tâm tưởng của chư Tôn Đức  Tăng Ni cùng chư Tôn Đức thì  hôm nay là một ngày rất được trông đợi.

 

Nhìn những Phật tử đang vân tập về Chánh điện, tuy cố giữ trang nghiêm cho đạo tràng, nhưng trên nét mặt của mọi người ai cũng hân hoan, mang tâm trạng mừng vui khi được về dự lễ Khánh tuế của Hòa Thượng Tôn Sư.

 

Lễ Khánh Thọ Hòa Thượng Phương Trượng:

 

Thượng Tọa Thích Hạnh Tuệ, điều hành chương trình, hướng dẫn những chi tiết cặn kẽ để buổi lễ được trang nghiêm thanh tịnh. Chư Tăng Ni đã vân tập đến Chánh điện để chuẩn bị cung đón chư Tôn Trưởng lão Hòa Thượng quang lâm Chánh điện. Trong tiếng xướng niệm

 Hồng danh Bổn Sư Thích Ca cùng tiếng chuông trống Bát nhã, oai lực của Tam Bảo, Hộ Pháp cùng cảnh trí tại Chánh điện làm cho tất cả lắng lòng thanh tịnh cùng hướng về điểm chung nhất đó là Lễ Khánh Tuế của Hòa Thượng Phương Trượng.

 

Buổi lễ được sự chứng minh của chư Tôn Hòa Thượng: Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt (Pháp quốc), Hòa Thượng Thích Trí Minh ( Na uy), Hòa Thượng Thích Như Tín (Việt Nam), Hòa Thượng Thích Như Thọ ( Việt Nam), Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa ( Hòa Kỳ), Hòa Thượng Thích Bảo Lạc ( Úc Châu), Hòa Thượng Thích Trường Sanh ( Tân Tây Lan), Hòa Thượng Thích Quảng Ba (Úc Châu) Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu (Hoa Kỳ), Hòa Thượng Thích Minh Nghĩa, Hòa Thượng Thích Quảng Bình, Hòa Thượng Thích Thông Hải (Hoa Kỳ)… Chư Tôn Đức Ni có: Ni trưởng Thích Nữ Như Tuấn, Ni Trưởng Thích Nữ Như Viên, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Cảnh, Ni Trưởng Thích Nữ Hạnh Tâm, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Chỉ, Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Phước, Ni Trưởng Thích Nữ Giới Châu…

Theo số liệu chưa chính xác thì số lượng chư Tôn Đức Tăng Ni đến chứng minh và chúc mừng lễ Khánh tuế của Hòa Thượng Phượng Trượng Tổ Đình Viên Giác gần 300 vị, bao gồm nhiều tự viện từ nhiều quốc gia trên thế giới, hàng ngàn Phật tử, nhiều cơ quan truyền thông và báo chí trong cũng như ngoài nước Đức đã cập nhật và đưa tin về những ngày Đại Lễ.

 

“Ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng

Nghĩa Ân sư muôn kiếp khó đáp đền”

 

Sau lời dẫn của Thượng Tọa Thích Hạnh Tuệ, Thượng Tọa Thích Hạnh Tấn cùng tất cả tứ chúng Tổ Đình Viên Giác, kính cẩn đảnh lễ hiện tiền chư Tôn Đức chứng minh trước khi dâng lời tác bạch, một nét đẹp trong ngày lễ Khánh tuế Tôn Sư:

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni:

 

Ngưỡng bạch hiện tiền chư Tôn Đức Tăng Ni,

Kính bạch Hòa Thượng Tôn Sư: “Thế gian nói tam thập nhi lập, chưa tới tuổi này Sư Phụ đã dấn thân vào các miền của xứ Đức và Châu Âu để tạo dựng một nền móng cho cộng đồng Phật tử phát triển, đem niềm tin Phật Pháp gieo vào lòng những người con Việt xa quê hương.

Hôm nay đây, chúng con hàng đệ tử quỳ trước Sư Phụ dưới sự chứng minh của Tam Bảo, nhất niệm bày tỏ lòng biết ơn Sư Phụ đã tạo duyên cho chúng con đến với đời sống xuất gia, đã đặt cơ sở để cho chúng con có thể thuận lợi trong việc hoằng dương Chánh pháp nơi xứ này. Trong sự niệm ân đó, chúng con cũng niệm ân Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã cưu mang Sư Phụ, niệm ân Sư Ông Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Long Trí đã đưa Sư Phụ vào Đạo, niệm ân hai Đấng Sanh thành của Sư Phụ đã mang Sư Phụ vào đời. Ngưỡng nguyện  Tam Bảo gia bị cho Sư phụ trong những năm tháng tới có thể thong dong hơn trong cuộc sống, để theo đuổi sở thích dịch thuật trước tác của mình, hoặc tìm về tìm bản tánh chơn như theo mục đích của đời sống một bậc xuất trần làm điểm son trong cuộc đời đầy sắc màu mà Sư Phụ đã trải qua.

Ân Thầy bàng bạc tựa áng mây

Lơ lững hư không khắp đó đây

Dừng chân Xứ Đức lòng rộng trải

Cam lồ từng giọt thấm trời Tây.

 

Thất thập cổ lai hi, quan niệm mà người đời đều biết, quãng đời Sư Phụ đã đi qua, chúng con rồi sẽ đến, chúng con nguyện học tập từ đời sống của Sư Phụ để thăng hoa tâm thức của tự thân và phát nguyện cố gắng giữ gìn mạng mạch của Như Lai không dứt đoạn ở những nơi mà chúng con đến, để làm món quà dâng lên Sư Phụ trong ngày kỷ niệm này.

Ngưỡng mong Sư Phụ chứng biết cho chúng con. Nam Mô Phổ Cúng Dường Bồ Tát".

 

Trong phát Bồ Đề Tâm Văn, Tổ Sư Tĩnh Am có dạy: “Ngày nay chúng ta giáo pháp thấm nơi thân, ca sa khoác trên người tất cả đều nhờ ơn Sư Trưởng tác tạo”. Cuộc sống của chúng sanh vạn loại, cứ theo dòng luân chuyển, sanh diệt luân hồi. không có gì may mắn và hạnh phúc hơn khi trong đời này, được gặp Minh sư, sống trong sự giáo dưỡng của suối nguồn từ bi vi diệu của Phật pháp. Nếu không có Sư Trưởng thì cuộc sống này cứ vẫn mịt mờ, con đường phía trước chỉ là những lối mòn của tập khí, của những ràng buộc trong cuộc sống đầy phiền lụy.

Trong suốt mấy mươi năm khó nhọc, Ân sư đã tác thành giới thân tuệ mạng cho chúng con. Giờ đây với tất cả tấm lòng chí thành chí kính, tất cả hàng đệ tử chúng con, nguyện đem tất cả những gì thanh cao nhất, thanh khiết nhất, tinh anh nhất của cuộc đời mà chúng con tu tập được, xin gói trọn trong chung trà này. Nguyện Sư Phụ chứng tri.

 

Hòa Thượng Phương Trượng ban pháp từ:

 

Sau lời khải bạch đến chư Tôn Đức Tăng Ni, Hòa Thượng Phương Trượng đã ban lời giáo huấn:

“Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác” Phật dạy Phật pháp trong đời sống thường, trước hết chúng ta cần hoàn thiện tư cách trong vai trò của một con người bình thường. Sau đó làm nền tảng để vươn lên tâm nguyện cao xa, rộng lớn hơn.

Trong tinh thần niệm ân nhớ ân về nguồn cội Tổ Đức, nhờ ân đức của chư vị Tổ Sư mà cụ thể là công đức của Tổ Sư Minh Hải Pháp Bảo. Nhờ ơn đức của Tổ mà Hòa Thượng đã tôi luyện tâm nguyện ý chí của mình để từng bước hoàn thành tâm nguyện. Và chính trong niềm tôn kính vô biên ấy là động lực cho Hòa Thượng luôn tâm nguyện tu hành, quảng phát đại nguyện, gìn giữ Tông phong, dẫu cho bên ngoài những đổi thay, nhưng trong dòng pháp Tông môn không bao giờ đoạn tuyệt.

Hòa Thượng Phương Trượng bày tỏ niềm tri ân sâu xa đến chư Tôn đức Trưởng lão Hòa Thượng, đặc biệt là quý chư Tôn Đức Trong Môn Phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Việt Nam.

Thật cảm động khi Hòa Thượng nói:

Cảm niệm ân đức sanh thành dưỡng dục của Mẹ Cha.

Cảm niệm ân đức Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Ngài là bào huynh của chúng tôi, nếu không có Ngài thì có lẽ bản thân chúng tôi cũng chưa chắc đã được thành tựu như ngày nay.

 

Huấn từ của Hòa Thượng Thích Bảo Lạc:

 

Hòa Thượng Thích Bảo Lạc đã nhắc đến đại chúng về Tổ Minh Hải Pháp Bảo ( ngày 28 tháng 6 năm Canh Tuất (1670). Tổ Sư tuy không phải người bản xứ, nhưng đến Việt Nam để hoằng hóa vào niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 3 đời Vua Lê Huyền Tôn, Đinh Tỵ (1677), đời chúa Nguyễn Phúc Tần. Ngài Minh Hải-Pháp Bảo khai sơn chùa Chúc Thánh tại Cẩm Phô-Hội An. Lúc bấy giờ Ngài độ khoảng 26 hoặc 27 tuổi. Từ những ngày đầu tiên ở nơi mảnh đất đầy cát bụi này, Ngài chỉ lập một thảo am để tịnh tu phạm hạnh. Dần dần hương giới đức của Ngài lan tỏa khắp mọi nơi, ảnh hưởng đạo đức đến người dân phố Hội và các vùng phụ cận nên đồ chúng mỗi ngày càng quy ngưỡng tham học càng đông.

Thấy cơ duyên hóa độ đã đến, Ngài chính thức khai đường giảng pháp, tiếp Tăng độ chúng. Để cho sự truyền thừa có quy củ dài lâu, Ngài biệt xuất một bài kệ truyền pháp như sau:

 

Minh Thiệt Pháp Toàn Chương
Ấn Chơn Như Thị Đồng
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường
Đắc Chánh Luật Vi Tông
Tổ Đạo Giải Hạnh Thông
Giác Hoa Bồ Đề Thọ
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung

 

Từ đây, trong dòng lịch sử truyền thừa của Phật giáo Việt Nam có một dòng Thiền mới xuất hiện mà sử sách gọi là dòng Thiền Chúc Thánh, hay còn gọi Thiền phái Minh Hải Pháp Bảo. Trong bài kệ này, 4 câu đầu dùng để đặt pháp danh và 4 câu sau dùng để cho pháp tự. Hiện nay, dòng Thiền Chúc Thánh đã truyền xuống đến các chữ Thánh, Thọ và sự ảnh hưởng của dòng Thiền này không những ở các tỉnh miền Trung, miền Nam mà còn lan tận đến các quốc gia ở các châu lục trên thế giới. Sau gần 50 năm sang An Nam trác tích hoằng hóa, đến ngày mồng 7 tháng 11 năm Bính Dần (1746), Ngài gọi đồ chúng đến dặn dò và đọc kệ phú chúc:

 

Nguyên phù pháp giới không
Chơn như vô tánh tướng
Nhược liễu ngộ như thử
Chúng sanh dữ Phật đồng

Tạm dịch:

Pháp giới như mây nổi
Chân như không tánh tướng
Nếu hiểu được như vậy
Chúng sanh với Phật đồng

 

Hòa Thượng dạy tiếp

“Cây cội mới nở cành xanh ngọn

Nước có nguồn mới bủa khắp rạch sông”

Trong ý nghĩa thiêng liêng vô cùng quan trọng, người đệ tử hay người con cần phải quan tâm Cha Mẹ, Thầy Tổ của mình khi các bậc tôn quý ấy còn đang hiện thế, đừng để những lời thương tiếc hay hối hận muộn màng.

Cầu mong Sư Phụ trường thọ là một hiếu đạo, nhưng điều mong muốn nhất của các Bậc Sư Trưởng là mong các hàng đệ tử trong Tông Phong, nương ân đức của Tôn Sư, học hạnh Ân sư để làm cho mạng mạch của Phật Pháp trường lưu mãi mãi tồn tại trên thếgian này, để cho bao loài hữu tình đều được thấm nhuần ơn đức Tam Bảo.

 

Là hậu duệ của Bậc Tổ Sư mà uy đức của Ngài đã trải dài hơn 3 thế kỷ, chúng ta cần phải cố gắng để phát huy tinh thần của Tổ Sư mà làm lợi lạc cho muôn loại. Nếu như trên bước đường tu học, có những chướng duyên, nghịch cảnh, những lỗi lầm trong đời sống thì điều cần thiết là phải phủ phục dưới Tôn Tượng Quý Ngài sám hối, quán tưởng những công đức và hành trạng của quý Ngài để thanh lọc thân tâm mà tiến tu đạo nghiệp.

 

Đạo Từ của Hòa Thượng Thích Như Tín

 

Hòa Thượng Thích Như Tín, đại diện cho Tông phong Pháp phái Lâm Tế Chúc Thánh, cùng tất cả hiện tiền chư Tôn Đức chứng minh ban đạo từ:

“Thân Thị Bồ Đề thọ”, “Bồ đề bổn vô thọ”, là hai câu kệ của Pháp Bảo Đàn Kinh được Hòa Thượng trích dẫn để khuyến tấn đại chúng. Và với lời cầu chúc Hòa Thượng Phương Trượng trường thọ và sự nghiệp hoằng pháp thành tựu viên mãn.

 

Trong phần tặng quà và dâng quà lưu niệm đến Hòa Thượng Phương Trượng, vì thời lượng có hạn của chương trình nên ngay tạiChánh điện có 42 Chư Tôn Đức Tăng Ni, Đại diện cho các Tu Viện, chùa, tịnh thất, niệm Phật đường.. , và 54 Phật tử khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, có một số quý chư Tôn Đức, Phật tử tặng quà, dâng quà ẩn danh, không phải trong thời điểm trên và không gian cũng rất nhiều. Xin cảm niệm ân đức của quý Tăng Ni và cảm ơn tất cả quý Phật tử.

Trong phần dâng quà, có phần quà của Ban Hoằng Pháp Âu-Mỹ, Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đại diện cho chư Tôn đức Tăng Ni trong phái đoàn tác bạch, với tất cả tấm lòng thành kính của người hậu học. Thượng tọa Thích Nguyên Tạng đã bày tỏ tấm lòng tri ân sâu sắc, với tâm nguyện thuyết pháp độ sinh, Hòa Thượng Phương Trượng đã thành lập phái đoàn hoằng pháp Âu Mỹ suốt gần hai mươi năm qua và Ngài làm trưởng đoàn. Trong những chuyến đi ấy, từ những tiểu bang của Mỹ, Canada, Châu Âu Hòa Thượng luôn vì tâm nguyện học pháp lợi lạc quần sanh mà không từ gian khổ. Trong năm nay cũng là chuyến cuối của Hòa Thượng trong vai trò trưởng đoàn Hoằng Pháp. Ngài muốn dành khoảng thời gian còn lại của đời mình để đọc đại tạng kinh và hoàn tất đại nguyện của bậc xuất trần thượng sĩ. Thế nhưng theo lời giáo huấn của Hòa Thượng: “Sức khỏe con người có giới hạn, nhưng tâm nguyện vì Pháp không giới hạn. Thầy không dẫn phái đoàn đi thuyết pháp nhưng tâm nguyện đó Thầy muốn quý Tăng Ni giữ gìn. Nay xin ủy thác tâm nguyện này cho Thượng Tọa Thích  Nguyên Tạng, thay thế Ngài vai trò điều hợp Đoàn Hoằng Pháp Thế Giới, Thượng Tọa Thích Thông Triết, Châu Mỹ, Thượng Tọa Thích Viên Giác, Châu Âu”, những lời dạy của Ôn thật làm cho quý Thầy, Quý Sư Cô trong phái đoàn Hoằng pháp vô cùng cảm động.

 

Văn nghệ cúng dường:

Để bày tỏ tấm lòng đối với bậc Tôn Sư khả kính, nam ca sỹ Gia Huy cùng một số Anh Chị ca sỹ đến từ Hòa Kỳ và các Gia đình Phật tử Việt Nam đã đóng góp những tiết mục thật sâu lắng, chan chứa sự phụng thờ Sư Trưởng, tôn kính Mẹ Cha. Những vở kịch được chuẩn bị công phu và tràn đầy tấm lòng thiết tha dâng cúng lên Hòa Thượng Tôn Sư

Đại Giới Đàn Quán Thông:

Nhân dịp mừng khánh thọ lần thứ 70. Hòa Thượng Phương Trượng Viên Giác có tâm nguyện tổ chức Đại Giới Đàn  nhằm “Tiếp dẫn Hậu Lai Báo Phật Ân Đức”. Được sự chấp thuận của HĐĐH Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Châu Âu, kiến lập Tuyển Phật Trưởng, Tam Đàn Thọ Cụ. Giới Đàn tên là Quán Thông, pháp hiệu của bậc cao Tăng Phật Giáo Việt Nam.

Khảo hạch Giới tử:

Theo chương trình chiều ngày 28 tháng 6 năm 2019, Chư Tôn Đức trong Ban giám khảo: Thượng Tọa Thích Tâm Huệ, Thượng Tọa Thích  Giác Thanh, Đại Đức Thích Hạnh Giới tiến hành khảo hạch giới tử theo quy định của Ban Tổ chức.

Số lượng giới tử:

Sa di: 4 giới tử

Sa di ni: 6 giới tử

Thức xoa: 15 giới tử

Tỳ kheo Ni: 5 giới tử

Tỳ kheo: 7 giới tử

Cung An Chức Sự:

Thượng Tọa Thích Hoằng Khai, được sự chỉ định của Hòa Thượng Chánh Chủ Đàn, dâng lời tác bạch, cung thỉnh Cung An Chức Sự.

Hội Đồng Thập Sư Tăng:

Đàn Đầu Hòa Thượng:  Hòa Thượng Thích Bảo Lạc

Yết ma a xà lê: Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt

Giáo Thọ A Xà Lê: Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa

Đệ Nhất Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Trí Minh

Đệ Nhị Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu

Đệ Tam Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Quảng Ba

Đệ Tứ Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Trường Sanh

Đệ Ngũ Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Thích Bổn Đạt

Đệ Lục Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Quảng Hiền

Đệ Thất Tôn Chứng: Hòa Thượng Thích Minh Giác

 

Đệ Nhất Tuyên Luật Sư: Thượng Tọa Thích Tâm Huệ

Đệ Nhị Tuyên Luật Sư: Thượng Tọa Thích Giác Thanh

 

Đệ Nhất Dẫn Thỉnh: Thượng Tọa Thích Hoằng Khai

Đệ Nhị Dẫn Thỉnh: Thượng Tọa Thích Nguyên Lộc

 

Hội Đồng Thập Sư Ni:


Đan Đầu Hòa Thượng: Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn
Yết ma a xà lê: Ni Trưởng Thích Nữ Như Viên
Giáo Thọ A Xà Lê: Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Phước
Đệ Nhất Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Như Minh
Đệ Nhị Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Minh Hiếu
Đệ Tam Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Diệu Trạm
Đệ Tứ Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Huệ Châu
Đệ Ngũ Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Huệ Thanh
Đệ Lục Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Như Quang
Đệ Thất Tôn Chứng: Ni Sư Thích Nữ Nhất Nguyên

Đệ Nhất Dẫn Thỉnh: Ni Sư Thích Nữ Tuệ Trí
Đệ Nhị Dẫn Thỉnh: Sư Cô Thích Nữ Hạnh Khánh
Thông dịch và hướng dẫn giới tử ngoại quốc: Sư Cô Thích Nữ Hạnh Trì

Nam Mô Đại Từ Mẫn Cố Đại Từ Mẫn Cố Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát-tác-đại chứng minh.
Ngày 28 tháng 6 năm 2019
( Ngày 26 tháng 6 năm Kỷ Hợi)
Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Đức Quốc.
Chánh Chủ Đàn
Hòa Thượng Thích Như Điển
Bái yết

 

 Ghi nhanh: Thích Hạnh Phẩm

Nhiếp ảnh: Thích Đồng Thiên, Đh. Nguyên Trí


 

Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (1)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (2)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (3)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (4)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (5)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (6)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (7)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (8)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (9)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (10)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (11)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (12)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (13)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (14)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (15)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (16)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (17)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (18)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (19)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (20)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (21)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (22)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (23)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (24)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (25)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (26)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (27)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (28)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (29)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (30)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (31)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (32)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (33)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (34)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (35)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (36)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (37)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (38)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (39)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (40)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (41)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (42)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (43)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (44)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (45)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (46)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (47)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (48)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (49)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (50)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (51)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (52)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (53)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (54)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (55)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (56)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (57)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (58)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (59)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (60)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (61)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (62)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (63)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (64)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (65)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (66)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (67)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (68)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (69)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (70)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (71)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (72)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (73)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (74)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (75)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (76)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (77)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (78)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (79)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (80)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (81)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (82)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (83)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (84)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (85)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (86)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (87)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (88)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (89)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (90)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (91)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (92)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (93)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (94)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (95)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (96)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (97)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (98)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (99)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (100)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (101)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (102)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (103)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (104)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (105)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (106)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (107)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (108)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (109)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (110)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (111)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (112)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (113)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (114)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (115)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (116)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (117)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (118)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (119)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (120)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (121)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (122)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (123)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (124)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (125)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (126)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (127)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (128)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (129)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (129-a)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (131)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (132)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (133)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (134)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (135)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (136)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (137)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (138)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (139)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (140)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (141)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (142)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (143)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (144)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (145)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (146)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (147)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (148)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (149)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (151)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (152)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (153)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (154)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (155)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (156)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (157)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (158)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (159)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (160)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (161)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (162)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (163)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (164)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (165)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (166)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (167)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (168)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (169)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (170)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (171)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (172)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (173)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (174)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (175)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (176)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (177)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (178)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (179)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (180)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (181)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (182)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (183)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (184)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (185)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (186)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (187)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (188)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (189)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (190)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (191)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (192)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (193)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (194)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (195)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (196)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (197)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (198)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (199)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (200)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (201)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (202)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (203)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (204)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (205)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (206)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (207)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (208)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (209)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (210)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (211)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (212)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (213)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (214)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (215)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (216)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (217)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (218)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (219)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (220)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (221)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (222)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (223)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (224)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (225)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (226)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (227)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (228)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (229)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (230)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (231)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (232)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (233)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (234)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (235)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (236)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (237)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (238)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (239)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (240)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (241)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (242)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (243)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (244)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (245)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (246)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (247)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (248)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (249)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (250)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (251)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (252)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (253)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (254)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (255)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (256)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (257)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (258)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (259)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (260)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (261)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (262)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (263)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (264)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (265)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (266)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (267)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (268)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (269)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (270)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (271)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (272)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (273)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (274)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (275)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (276)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (277)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (278)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (279)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (280)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (281)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (282)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (283)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (284)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (285)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (286)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (287)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (288)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (289)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (290)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (291)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (292)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (293)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (294)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (295)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (296)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (297)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (298)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (299)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (300)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (301)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (302)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (303)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (304)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (305)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (306)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (307)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (308)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (309)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (310)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (311)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (312)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (313)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (314)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (315)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (316)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (317)Le mung khanh tue_HT Thich Nhu Dien (318)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6433)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9518)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4494)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4343)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6360)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5173)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7657)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6060)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12780)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567