Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dấu ấn trên dòng thời gian trong thơ Thanh Trí Cao

14/06/201901:20(Xem: 5451)
Dấu ấn trên dòng thời gian trong thơ Thanh Trí Cao
HT Quảng Thanh 3

DẤU ẤN TRÊN DÒNG THỜI GIAN

TRONG THƠ THANH TRÍ CAO
Như Hùng


Cõi thơ Thanh Trí Cao thênh thang rộng mở, dâng hiến đến cho đời những đóa hoa giác ngộ, cảm xúc sâu lắng diệu huyền miên mang, tâm tư ngập tràn hương thơm gió lạ. Chỉ có quyền năng của thi sỹ vượt ra ngoài giới hạn, mới đủ năng lực khơi dậy những chôn dấu trong tận cùng hiện hữu, trãi bày tâm cảnh trên từng đường nét, mở ra khung trời trinh nguyên lắng đọng.

Ở khía cạnh tìm đến giác ngộ, từng lời thơ từng câu chữ soi sáng lối đi nẻo về, một sự trực nhận tinh tế lạ thường trong từng hiển hiện, đưa hồn thơ vào muôn lối không cùng. Thơ được khởi đi từ những con người vốn lưu xuất ung dung trong giác ngộ, nên tất cả dấu ấn khắc ghi đều trở nên sâu lắng vi diệu, cõi mênh mông sâu thẳm. Nếu đã là một Thiền Sư đúng nghĩa, thì mọi chuyển động hành hoạt, vung tay cất bước đều ngầm chứa những ẩn mang cốt cách cao thâm, trao gởi năng lượng nhiệm mầu đến cho nhân thế. Ở đó, một sự bùng lên lan tỏa của thức giác, đến tận nguồn cơn của tâm năng linh hiện, xóa nhòa biên cương giới hạn, chuyển mê khai ngộ thắp sáng hiện hữu, thâm nhập vào thể tánh chân như.

Thơ Thanh Trí Cao, hẳn chắc còn ẩn chứa những đường nét lung linh diệu vợi, gọi mời nhắc nhở ta lấy đó làm hành trang cất bước lên đường soi sáng cuộc lữ. Có khi phá vỡ ý niệm thường tình trong ta, nâng thành biểu cảm liên tục đánh động vào tận cùng tâm thức khiến ta giật mình tỉnh mộng. Có lúc soi bóng con đường ta đi mở lối cho ta trở về, từ trong thẩm sâu đâu đó cứ thế bùng lên dâng trào, từng hạt giống yêu thương từng lời thơ kết nụ nở hoa tự bao giờ.

Ngôn ngữ thi ca đó, đưa ta song hành nhịp bước thâm nhập vào cõi hương sắc, gió lạ hoa thơm ngào ngạt tràn đầy ngập lối, tình yêu lý tưởng ân tình tấc dạ không còn là những yếu tố chỉ được tìm thấy nơi ngữ ngôn, mà còn hóa thân chắp cánh biến thành định lực chứa đầy bi mẫn. Lý tưởng đó không còn là những mỹ từ kêu gọi suông mà trở thành sức sống diệu kỳ lan toả muôn nơi. Ở đó, nơi khung trời thơ mộng, gió mát trăng thanh soi lối vỗ về, từng lời thơ điệu nhạc ru đưa ta về bến đổ, cái bến yên ấm an bình mà thi sỹ Thanh Trí Cao đã từng đi qua đã từng đêm ngày chiêm nghiệm, đã từng tung mình thanh thản vượt lên. Cái bến không tên gọi, vượt ngoài muôn dặm, mở ra trên từng hiển hiện mà chỉ có tâm thức thường nghiệm mới có cơ may đến gần.

Ở đó, trong đó lời ca miên trường bất tận, suy tư bùng lên nở rộ trên lối về đong đầy trí tuệ, cứ vậy đêm ngày miệt mài dâng hiến, như một sắc hương tươi đẹp quyện chặt trên từng hé nụ, ấp ủ nâng niu trong từng sát na diệu kỳ. Chỉ cần trong tích tắt là mở ra chạm ngay vào được cái thực tại huy hoàng, hòa nhập lắng đọng cùng với đôi tay phù phép, cứ thế ngọc nhả châu bày, thinh âm tinh khiết biến động càn khôn, nhập bước nhập vai đong đầy tâm ý. Chữ nghĩa cảm xúc tung bay, mang theo bao cảnh đẹp hóa thành chất liệu dưỡng nuôi, cõi lòng hiển bày trong từng tất dạ, thuở ban sơ ước nguyện chốn vô cùng, khắc ghi mật ngôn vang dội cõi tịch liêu.

Như thế một cách đẹp lạ lùng như thế, trần gian huyễn mộng nuôi lớn hồn thi sỹ, ta đứng đợi chiều hoang đong thương nhớ, gió trên ngàn đưa tiễn bước chân ngoan, rồi mai kia trên dòng đời tao loạn, khóc dùm ta hai chữ vô thường. Ta vẫn biết dòng đời tuôn chảy không nguôi, nơi góc khuất tận cùng tâm thức theo nhau gọi mời, khi nào vượt thoát sông mê bể khổ, là lúc trong ta đong đầy nghị lực, bỏ buông những vướng bận lo lắng nhọc nhằn.

Bài thơ “Dòng sông thấp thoáng con thuyền”ngôn ngữ đẹp mượt mà, trao gởi đến nhân gian từng lời kinh vang vọng, từng bước đưa ta về bến đổ bình yên, nơi chốn ta luôn khát vọng trông chờ ngóng đợi, lòng dặn lòng tìm đến nơi ấy trú ngụ nương nhờ.

Giác ngộ rồi người sẽ về đâu
Cho tôi xin bắc một nhịp cầu
Dòng sông ấy thiên thu tịch lặng
Người là ai hằng hữu nghìn sau,

Giác ngộ rồi người sẽ làm chi
Cho tôi xin nối kết những gì
Lý tưởng đẹp cuộc đời dâng hiến
Đường thênh thang ta mãi cứ đi.

Đỉnh núi cao hay tình người cao
Cánh cửa không ta mở lối vào
Sở trường ấy chiều dày tuệ giác
Tâm ấn tâm người đã truyền trao.

Sang sông rồi thuyền bỏ lại đây
Bước ung dung tự tại như mây
Thảo am nhỏ trăng treo lơ lửng
Dấu ấn thiền hạnh ngộ Đông- Tây.

Cứ mỗi lần đọc lại bài thơ nầy, là mỗi dịp nhận rõ con đường giác ngộ ta hằng nâng niu ôm ấp, lúc nào cũng sáng hơn đẹp hơn dễ thương hơn. Lý tưởng cao cả lúc nào cũng trãi bày dâng hiến, gọi mời chúng ta cùng sánh bước nhập vai, lên đường đổi mới cuộc lữ. Chao ơi! Ngôn ngữ đó tâm cảnh đó không giới hạn nơi mê ngộ, mà còn chuyên chở chúng ta trên con thuyền vượt muôn dặm đưa người qua bến giác, dẫn ta đến nơi chốn bình bình yên yên, cho ta hít thở khung trời tự tại “người là ai hằng hữu nghìn sau” ngôn ngữ đành phải bất lực cúi đầu lặng thinh.

Con thuyền vượt trùng dương, mà người lái đò có đầy đủ kinh nghiêm và năng lực dẫn đưa, biết rõ đường đi lối về khiến cho ta không sợ lạc lối, không lo lắng ngăn sông cách núi, chắc hẳn sẽ đưa ta đến chốn nhiệm mầu. Cho dù có giông bão gió to sóng lớn, phong ba biến động thì con thuyền đó lý tưởng đó, vẫn hiên ngang tiến bước vững lòng với định lực sắc son vào chân lý như thật.

Một khi ta quyết lòng bền chí đêm ngày nổ lực tu tập, thì sẽ có lúc cánh cửa giác ngộ mở tung, ta vượt qua bằng con tim chân thật ngập tràn yêu thương, thường xuyên nung nấu lý tưởng giác ngộ. Thơ Thanh Trí Cao, từng lời từng chữ từng âm ba giai điệu, vẫn miệt mài tuôn đổ chứa đầy ân tình đạo đời. Đó cũng là niềm tin mãnh liệt sự khát vọng an lành muôn thuở trong ta, phải gắng sức hết lòng bằng mọi cách tìm đến trú ẩn. Có như thế ta mới không cô phụ, đáp ứng phần nào những thâm ân, những người đã vì ta mà nhọc nhằn gian khổ hy sinh.

Bài thơ “Tự tại ung dung” dưới đây, của một nhà thơ dâng tặng cho một nhà thơ nhẹ gót ra đi “Ông lái dòng sông”. Điều đặc biệt ở đây đều khởi đi từ dòng sông liên quan đến dòng sông “Câu chuyện dòng sông”và “Dòng sông thấp thoáng con thuyền”. Dòng sông của giác ngộ, nơi suối nguồn vi diệu ngát hương và ngọt lịm đó, nơi cả hai con người cùng hội tụ chung một lý tưởng phục vụ dâng hiến cao cả và cùng một điểm đến. Ngoài ra dòng sông còn nói lên được mọi thứ mọi điều, âm thầm đón nhận và ban tặng không một lời than trách, càn quét và triệt tiêu, âm thanh và cuồng nộ, nơi ấy còn dung chứa tất cả đón nhận tất cả. Điều đáng nói hơn nữa, ngoài việc phải làm cần làm, thể hiện trọn vẹn tấm lòng thủy chung cho người ra đi, ân tình đó tấm lòng đó cũng còn nhắn gởi cho người ở lại. Phải sống làm sao cho hết lòng trọn dạ, sống làm sao cho ấm tình đẹp đạo, sống sao mà hương đạo hạnh trí tuệ mãi còn lưu lại.

…“Những chứng tích lộ trình giác ngộ
Chí trượng phu một thuở tang bồng
Thuyền chuyên chở hồn thơ viễn xứ
Ấn lưu truyền “Ông Lái Dòng Sông”

Nơi bến cũ đò chiều xao xuyến
Biển xanh xanh biêng biếc mơ hồ
Những tia nắng đồi Tây chiêu cảm
Lời kinh đêm vọng tiếng Nam Mô

Trăng trường mộng như người thi sĩ
Đời kinh qua thời thế hãi hùng
Thực tướng ấy cơ hồ sóng biển
Sang sông rồi tự tại ung dung”

Ôi! Lời thơ tuôn chảy về nẻo có không, điệp khúc “Nam Mô” đêm ngày vang vọng trên từng sanh diệt mang mang một cõi đi về. Ừ! Mà tác giả nhắn gởi ra sao cho cuộc đăng trình ly biệt đó? Tại sao phải chờ sang sông rồi thì mới “tự tại ung dung”, sao không ung dung tự tại ngay từ khi còn ở bên nầy? Giả như khi qua bên đó rồi, ta mới phát hiện ra chẳng được như ý chẳng vừa lòng, vậy thì liệu ta có trở lại bên nầy một lần nữa được không? Ta có dám đánh cược với may rủi với vô thường, một cuộc chơi quá lớn một sự đánh đổi khủng khiếp chăng? Chắc hẳn là không trăm nghìn lần không dứt khoát là không, không dám không chịu không đủ bản lĩnh đổ vào canh bạt cuối đời như thế. Vậy thì, ta phải ra công gắng sức để có được sự ung dung tự tại ngay từ bây giờ.

Tự tại ung dung, là khi nào ta vượt qua được sông mê bể ái, thoát ra ngoài lụy phiền khổ đau đeo bám, gạt bỏ những phiền muộn lo toan, để cho thân nhẹ tâm an. Khi nào sang được sông ngộ đó, đến được bờ giác kia cũng là lúc ta nhẹ nhàng ung dung, sắc không một cõi nhẹ tênh. Nhưng nếu, ta chưa vượt ra chưa buông xuống những nhọc nhằn lo sợ thì làm gì ta có được tự tại ung dung? Rõ ràng, thi sỹ Thanh Trí Cao nhắn bảo ta phải tìm mọi cách “sang sông” ngay từ bây giờ, tại lúc nầy ở tại nơi đây mà thôi.

Đò chiều trên bến tịch liêu, trùng dương sóng gọi nước non người về, ta chừ rảo bước trên muôn lối, hương nồng thắm tô một cõi, đất trời trổi nhịp tin yêu, gió lạ từng cơn đi vào hồn lữ thứ, mộng ba sinh biết tỏ cùng ai, lặng yên nghe gỗ đá trỗi cung đàn, hồi chuông cảnh tỉnh vang vang miền tịch lặng. Cho tấc dạ ngập đầy hương với sắc, rồi mai kia ta nhẹ bước cõi vô thường, chút dư hương ngày xưa còn lưu lại, góp phần cho chí nguyện lớn cao thêm, cho vơi hết bến bờ hiu quạnh nọ, trần gian ơi quán trọ cuộc chia ly, buông hết chừ ta không vướng bận, cùng nhau về thể tánh chân như.

(Còn tiếp)


(Trích từ Tạp Chí Trúc Lâm số 62 năm 2016 với bút danh Như Như)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 14527)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6717)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5371)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4869)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5268)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6099)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5936)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9327)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 4995)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5298)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567