Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự Có Mặt Của Thiền Trong Dấu Ấn Nghệ Thuật 2

11/06/201913:21(Xem: 5411)
Sự Có Mặt Của Thiền Trong Dấu Ấn Nghệ Thuật 2

SỰ CÓ MẶT CỦA THIỀN TRONG DẤU ẤN NGHỆ THUẬT 2

( Bài phát biểu trong dịp ra mắt tác phẩm Dấu Ấn Nghệ Thuật 2 của nghệ nhân thiền sư Thanh Trí Cao ti Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo chùa Bảo Quang ). 

Chúng tôi có cơ duyên quen biết với thầy khi còn ở Việt Nam, lúc đó chúng tôi thường gọi thầy là cao tăng. Mà qu như thế, thầy cao thật, cao từớng mạo cho đến tư tưởng, cao từ những tác đng hưng khởi ở bên trong đến sự hành hoạt ở bên ngoài, cao từ nội giới đến ngoại giới, cao từ trong lý ng đến giải thoát, cao từ phụng sự tha nhân đến tinh thần giác ngộ. Hầu như tất cả những bộ môn nghệ thuật đều có sự góp mặt của Thầy, từ văn chương, thi ca, hội hoạ, kiến trúc, âm nhạc, nhiếp ảnh, tạc tượng, cắm hoa, non bộ, bonsai, sưu tầm cổ vật, đâu đó đều có bàn tay khối óc và con tim của thầy tạo nên. Thầy đem đo vào đi xuyên qua con đường của nghệ thuật, và xử dụng sở trường nầy để khai mở tâm thức, gieo hạt mầm giác ngộ đến với tha nhân. Thầy là nghệ sỹ, nghệ nhân, thiền sư Thanh Trí Cao 

Trước khi là một nghệ sỹ, một nghệ nhân thầy là một tăng s, trước khi những tác phẩm nghệ thuật ra đời thầy là một thiền sư. Dù đứng ở góc đ nào để nhận định, thì con ngưi tài hoa đó, ngh nhân vượt trội đó, trước hết và trên hết vẫn là một thiền sư. Cả hai lãnh vực đó được kết tụ trong cùng một con người, vì lẽ thiền còn được kể như một bộ môn nghệ thuật siêu việt trong việc chuyển hoá tâm thức trở nên tinh tường sáng tỏ " Kiến chiếu tự tánh " đ đi đến giác ngộ mà không gây nên sự xung đột, bế tắc, đổ vỡ nào. Dấu Ấn Nghệ Thuật 2 được hình thành từ năng lực tu tập, từ sự tư duy tác tạo, phụng sự, hiến dâng, tất cả đều nằm trong mỹ học vi diệu của thiền, sống và thở cùng một nhịp, với thiên nhiên con người, nên những ẩn mang, cốt cách, tàng chứa ấy đu được phủ vây bởi chất thiền. Có sao thấy vậy, thấy sao chụp vậy, đ nguyên như vậy, thể hiện như vậy. Ở đó ngôn ngữ không còn là ngôn ngữ mà là tiếng lòng, thông điệp truyền trao, chất liệu của yêu thương, hương từ bi và trí tuệ, gởi gắm tấm chân tình đến với tha nhân. Ở đó nghệ thuật không còn là nghệ thuật mà là siêu nghệ thuật, trở thành biểu tượng bắt nhịp cho sự bùng lên của giác ngộ, vượt thoát phủ trùm lên từng tâm cảnh. 

Trong tác phẩm Dấu Ấn Nghệ Thuật 2, ngoài lãnh vực tư tưởng, chứa đựng sự khám phá mới lạ, sự rộng mở của tâm thức trên từng hiện thực, chúng tôi tâm đắc hai tuyển tập ảnh mang chủ đề " Ngôn ngữ hoa sen " và " Đời sống thiền môn ". Cả hai bộ ảnh đu đạt giải thưởng quốc tế, và riêng bộ ảnh " Ngôn ngữ hoa sen " đạt giải " Nhiếp ảnh gia hàng đầu thế giới". Mỗi một bức ảnh là điểm chấm phá riêng, những đường nét lạ, tạo thành sức sống liên kết giữa đi tượng và nhận thức, con người và thiên nhiên trong sự hợp nhất. Trong hai tác phẩm vừa là hình ảnh, vừa là tư tưởng với hai tiểu luận, đó là " Huyền thoại ngôn ngữ hoa sen " và cùng tên chủ đề với bộ ảnh " Đời sống thiền môn ". Thầy đúng là bậc thầy của một số lãnh vực nghệ thuật, tất cả đu được kết tụ hình thành ở đó, ti đó, nơi thiền môn Bảo Quang, cứ thế mà vươn lên che mát và làm tươi đẹp cho đo cho đời.

Trong bộ ảnh " Ngôn Ngữ Hoa Sen " thầy nắm bắt được phút giây chuyển mình của thực tại, sự vươn lên, biến hiện, đi thay đu được thầy kéo lại, phơi bày, thể hiện một sức sống vô cùng linh hiện, để chúng ta có dịp xúc tác, chạm vào cái giây phút huyền diệu đó. Thời gian và không gian in dấu trên từng đường nét, sáng và tối hoà nhập với nhau, nở và tàn, sinh diệt trộn lẫn vào nhau. Những giọt sương kết tụ trên phiến lá, điểm tô thêm vẻ đp mong manh như thân phận của kiếp người, chỉ một cơn gió vô tình lay động, thì hạt sương y rơi xuống vở tung, nói lên sự có mặt của vô thường, thành, trụ, hoại, diệt, chi phối tất cả, nhưng cũng là nguyên tố để bừng lên sức sống cho một hành trình kế tiếp. Thầy đưa chúng ta đi từ sự nhiệm mầu nầy đến sự mầu nhiệm khác, tâm thức đợi mong, cận kề, bổng trở mình thức dậy. Hoa sen không chỉ là hình ảnh, để ta ngắm nhìn, mà nó đang mĩm cười và còn biết nói, có ngôn ngữ riêng " Ngôn ngữ hoa sen" . Hoa sen còn là biểu tượng tuyệt vời của Đạo Phật Việt, hoa sen mọc lên từ bùn, từ nơi tăm ti vươn lên trổi dậy, mang vẽ đẹp thanh khiết, tỏa hương thơm ngt ngào, và khi tàn phai đến khi tái hiện cũng từ nơi ấy. Sống và chết cùng với bùn, nhưng không bị ô nhiễm, " gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn " sống ở trần mà không nhiễm trần, sống với khổ đau nhưng tâm lúc nào cũng vưt thoát, " cư trần lạc đạo " bởi lẽ từ nơi kh đau mới cần sự giải thoát, phiền não chính là bồ đề, tuy hai vấn đ nhưng cùng chung một khuôn mặt. Chỉ có thiền sư nghệ nhân mới đ năng lực tạo thành nét chấm phá lững lơ, chỉ ra những điều kỳ diệu mà chúng ta không tự mình nhận ra được.

Bộ ảnh nghệ thuật về " Đời sống thiền môn " được thầy chụp lại, trong dịp chư tôn đc Tăng Ni tu hội về chùa Bảo Quang đ an cư kiết hạ, trau dồi đạo hạnh, trang nghiêm thân tâm. Mỗi bức ảnh là một thông điệp, lời kinh nhắc nhở, sự hồn nhiên vô tư của tuổi thơ, s sinh động tự tại của tuổi trẻ, sự thảnh thơi an lạc của tuổi già, vẫn ngày đêm vươn cao lan toả sức sống. Sáng và tối, có với không, còn với mất, đến và đi, sanh và tử, mê và ngộ, tạo thành bản hoà tấu vô tận lên cung bậc tử sinh. Màu y vàng giải thoát, cánh cửa không môn rộng mở, sự an lạc toả chiếu lên từng tâm cảnh, tạo thành năng lực nhiệm mầu, chuyển hóa sinh, lão, bệnh, tử, thành giác ngộ an lạc, vượt thắng vô thường tìm đến chân thường. Lời kinh tiếng mõ, pháp âm thi nhau vang vọng, từng bước thiền hành niệm Phật, hòa nhập theo dòng thời gian và không gian về nơi tịch lặng. Đi giữa tử sinh với vô thường réo gọi, mà vẫn thong dong mĩm cười tự tại, sống với khổ đau, biến đng nhưng tâm lúc nào cũng tỉnh thức. Một khi tuệ giác hiển bày, nhận ra được chân lý cao cả, thì đi với về, sinh với tử đồng một nghĩa, tất cả chỉ là sự dừng chân thăm viếng, khi duyên hết tâm nhẹ, an nhiên ra đi v nơi vô sinh, bất diệt, không có khởi đầu và chung cuộc. 

Dấu ấn nghệ thuật 2, là sự bừng dậy của tâm cảnh, nối kết của nghệ thuật, đi từ hiện thực đến phi thực, từ phi thực trở về với hiện thực, một sự đến đi của không cùng vô tận. Cái giây phút bất chợt đó, cái khoảnh khoắc nhiệm mầu ấy, được thầy kéo xuống đem lại gần, để chúng ta tự mình quán chiếu, chiêm nghiệm. Tấm lòng của thầy đã trãi bày, năng lực kết tinh đã hiển lộ, chỉ cần chúng ta nâng mức độ cảm nhận của mình lên cao, thì tâm cùng cảnh sẽ tỏ rạng. Thông thường chúng ta chỉ xử dụng một vài giác quan để nhận biết, nhưng nếu muốn cảm nhận một cách sâu xa trọn vẹn những tác phẩm nghệ thuật của nghệ nhân thiền sư Thanh Trí Cao, chúng ta phải xử dụng đến cả sáu giác quan, và đánh thức sáu giác quan của mình thức dậy trong sự rộng mở, chuyển hoá sáu căn thành sự nhận biết, tự tánh của như thật.

Mắt, nhìn không đơn thun để nhìn, mà phải quán chiếu sự chuyển động vi tế của từng khởi diệt, cái nhìn không bị gò bó, bóp méo, cái nhìn vượt thoát, thấu rõ của con mắt trí tuệ, chuyển thành năng lưng, tương tác phổ cập lên từng hiện thực, một sự hoà nhập của tâm cùng cảnh.

Tai, lắng nghe từng nhịp thở, những réo gọi của vô thường, những xúc cảm uyên nguyên tràn về ngự trị, một sự liên kết vượt ra ngoài thời không.

Mũi, cảm nhận trọn vẹn sự lan tỏa mênh mông của hương thiền lẫn khuất trên từng in dấu, hương thơm tinh khiết của giải thoát, phủ ngập ngay từ bây giờ cho đến tận mai sau không hề phai nhạt.

ỡi, nếm trãi hương vị của giác ngộ giải thoát,  miệng nói lời ái ngữ chân thật phù hợp với chánh pháp.  

Thân, xúc tác được cái phút giây tuyệt vời của sự sống, không có sự biến động chen vào lôi kéo, không còn nhân ngã,  thân với tâm cùng hoà nhịp, chạm thẳng vào, không cần đến những tác động từ bên ngoài.

Ý, chuyển hoá sự sai biệt của ý thức, vưt ra ngoài năng sở, tâm cảnh, đi tượng và nhận thức, khám phá và tự mình trãi nghiệm. Dấu ấn nghệ thuật 2, thật đẹp, rộng, sâu, tuyệt vời, tự nó nói lên tất cả.

Một tác phẩm nghệ thuật to nhất, lớn nhất, vượt ra ngoài thời gian, lưu lại trong lòng mọi ngưi, đó là công trình kiến trúc ngôi chùa Bảo Quang, do bàn tay khối óc của thầy và của tất cả Phật tử chúng ta, chung sức chung lòng tạo thành. Ưc mong Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Chùa Bảo Quang mỗi ngày một thêm lớn mạnh, làm chổ nương tựa an lạc, ấm cúng cho chúng ta và những thế hệ mai sau.

Cầu nguyện Tam Bảo Gia hộ cho tất cả chúng ta vững tiến trên con đưng đạo.

California - 10- 2012

Như Hùng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/09/2021(Xem: 5679)
Đầu thập niên sáu mươi tôi rời trường Chu-Văn-An khi Trường vừa mới chuyển xuống đường Minh-Mạng trong Chợ Lớn. Giã từ Thầy học, chia tay bạn bè để đi con đường mới. Dẫu có học chung trên Đại Học cũng không còn thân thiết như xưa. Hồi đó tôi chia các Giáo-Sư trong Trường Chu-Văn-An làm 2 loại: Một loại “khó đăm đăm”, luôn luôn nghiêm khắc, không bao giờ cười dù chỉ mỉm miệng. Điển hình là Giáo-Sư Đào Văn Dương. Loại thứ hai luôn luôn vui cười, hay đùa giỡn với học sinh. Điển hình là Giáo-Sư Nguyễn Ngọc Quỳnh. Tôi rất kính trọng cụ Đào Văn Dương ở tính ngay thẳng, chừng mực. Tôi thân mật với cụ Nguyễn Ngọc Quỳnh dĩ nhiên vì tính vui vẻ, cởi mở, dễ thân mật. Đặc biệt cụ còn là một Cư-Sĩ Phật-Giáo mà tôi thường được nghe cụ thuyết pháp ở chùa Phước-Hòa cuối thập niên năm mươi (Con trai cụ hiện là một vị Hòa-Thượng ở vùng Houston, Texas).
04/09/2021(Xem: 4710)
Hòa thượng Thích Minh Thông, Quyền Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa thay mặt Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, môn đồ pháp quyến, chùa Thiên Xá, TP.Nha Trang cáo bạch kính tiếc báo tin Trưởng lão Hòa thượng Thích Liễu Pháp, Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN viên tịch. Trưởng lão Hòa thượng Thích Liễu Pháp, Thành viên Hội đồng Chứng Minh GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, khai sơn - trú trì chùa Thiên Xá, TP.Nha Trang.
23/08/2021(Xem: 3410)
Hòa thượng thế danh là Trần Đại Quảng, pháp danh Tâm Trí, tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên, thuộc đời thứ 43 dòng Lâm Tế, Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Dương Nổ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình Nho phong đức hạnh nhưng có chí cách tân, theo hướng Tây học. Thân phụ là cụ ông Trần Đại Dật, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mĩu (pháp danh Tâm Mỹ). Ngài lớn lên theo truyền thống giáo dục gia phong, được tiếp xúc với nhiều bậc thân hữu trí thức của thân phụ trong những lúc hàn huyên hay luận bàn văn sách. Do đó Ngài đã sớm tiếp thu kiến thức sâu rộng, lý giải sự việc nhanh chóng, đạt lý thuận tình nên rất được lòng quần chúng. Ngài ham học hỏi, hiếu khách, nhất là được kết thân với các bậc thiện hữu tri thức, chính vì thế mà Ngài phát huy trí tuệ rất nhanh. Nhờ tính năng động và chí phấn đấu trong học tập và lao động nên dù nghiêm thân mất sớm, Ngài, với tư cách con trưởng, vẫn giữ vững gia nghiệp, phụ giúp mẫu thân dưỡng dục các em học hành t
20/08/2021(Xem: 6044)
Sư Phụ Tôi người hiền hoà chất phát Sống một đời giản dị rất bình dân Bất cứ ai dù ở chốn xa gần Khi cần đến Ngài sẵn sàng cứu giúp. Ngài thuộc bậc hàng cao Tăng thạc đức Nhưng lúc nào cũng tỏ hạ khiêm cung Sống giản đơn nhưng sắc thái kiêu hùng Bình thuận tỉnh, đệ huynh đều kính mến. Không phung phí của Đàn na tín thí Từng hạt cơm, hạt đậu cả hạt mè Quần áo thì vài ba bộ che thân. Ngày ba bữa cháo rau cùng tương đậu. Thời khoá biểu Ngài luôn thường nhắc nhở
11/08/2021(Xem: 5877)
Toàn tập Kinh Tạng Nikaya cho Iphone & Ipad (cảm ơn TT Tâm Hải đã gởi tặng, mời đại chúng vào download để đọc kinh Tạng)
04/08/2021(Xem: 4883)
Sông Thạch Hãn, Ngân Thiền Tâm Mộ Phật. Chốn Trà Trì, Gương Học Hạnh Xuất Gia. Nhỏ Tầm Chơn, Quyết Chí Xa Thế Tục. Khoác Áo Nâu Sòng, Học Lối Thích Ca. Chào Song Thân, Xứ Bảo Lộc Quê Nhà. Nương Thầy Tổ, Giữ Gìn Tâm Hướng Đạo. Mùi Kinh Kệ, Tháng Ngày Xông Cõi Tịnh. Thuộc Luật Nghi, Từ Góc Hạnh Trăng Sao.
26/07/2021(Xem: 5760)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
12/07/2021(Xem: 3360)
Trăm Năm Cõi Mộng Phù Hương, Vọng Lời Kinh Phật, Mở Đường Pháp Sinh. Lời Thầy Còn Đọng Chút Tình, “Sông Bờ” Ai Đợi, Dáng Hình Trí Yên. Quê Quảng Bình, Dấu Phật Thiên. Nuôi Mầm Học Hạnh, Giãi Niềm Gia Lai. Thầy Dụng Võ, Ngọc Liên Đài, Thâu Lời Kinh Luận, Bỏ Ngoài Tục Danh.
26/06/2021(Xem: 3205)
Quên sao được những ngày đầu nhập đạo Quỳ trước Thầy con phát nguyện xuất gia (1) Cuộc đời con nay đã được an hòa Sống giải thoát trong tình thương Thầy, bạn Nương Chùa Tỉnh (Pháp Bảo) thăng hoa từng ngày tháng Từ học hành đến tu tập nâng cao Từng trải nghiệm với Phật Pháp nhiệm mầu Hành tinh tấn chuyển hóa nhiều nghiệp lực Sống vị tha khiêm cung tròn phước đức Học hạnh Thầy dung nhiếp độ chúng sanh Viện Huệ Nghiêm, Vạn Hạnh chưa viên thành (2) Đường phụng sự tham gia Đoàn Xã Hội (3) Nhưng tu hành Thầy khuyên đừng nên thối Tinh tấn lên nhân quả rất công bằng Việc sẻ chia thực hiện hết khả năng Đời ý nghĩa mang niềm vui dâng hiến Đức hài hòa của Thầy luôn thể hiện (4) Tròn vai trò Hội Chủ suốt nhiều năm Lòng của Thầy trong sáng tợ trăng rằm Quyết độ tận chúng sanh vơi đau khổ !!! Chùa Pháp Hoa, 26/06/2021 Thích Viên Thành
22/06/2021(Xem: 9991)
Lời thưa của người kết tậpNhững khi nhắc chuyện Chùa xưa, Mẹ thường kể “… Sau ngày Ông Ngoại bị liệt, Ôn Đỗng Minh hay thăm hỏi, và dặn các học trò thường xuyên lui tới săn sóc…” Tôi biết vỏn vẹn chỉ chừng ấy về Ôn, vậy đã là quá nhiều! Tập san Hoa Đàm số 12 này được kết tập và phát hành nhân ngày Kỵ, phần lớn nội dung bài vở, hình ảnh đã có trong tập Kỷ yếu Tưởng Niệm Ôn (viên tịch ngày 17.06.2005 | 11.05 năm Ất Dậu) do hàng Đệ tử của Ôn thực hiện trước đây, và một ít từ trang nhà Quảng Đức (https://quangduc.com/) của Thầy Nguyên Tạng biên tập, cũng như Pháp Tạng (http://phaptangpgvn.net/vie/) do Thầy Tâm Nhãn phụ trách.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567