Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi thảnh thơi thầy nhé!

27/05/201905:53(Xem: 6600)
Đi thảnh thơi thầy nhé!


Đi thảnh thơi thầy nhé! 

 

Mười mấy năm biền biệt, chia tay nhau ở chùa Phước Long, Connecticut, USA,  từ năm 2006, thế rồi huynh đệ mất liên lạc nhau. Bổng nhiên, tháng rồi, thầy gửi email về thăm hỏi sức khỏe; kèm theo đó là một vài video clip mà thầy tổ chức khóa tu, hướng dẫn thiền tập cho thiền sinh bản xứ ở Tĩnh Tâm thiền tự - North Carolina, ngôi chùa do thầy trụ trì. Tôi gởi mail lại nói đùa: “Đề nghị thiền sư đổi tên chùa thành Tâm Khanh Thiền Tự nhé”. Thầy trả lời lại: “ Hi ... hiii ...  “. 

Vài hôm sau, tôi lại nhận được email: “Thầy TC cho xin số điện thoại nhé”. Tôi gửi số điện thoại và cũng không quên nhắn thêm “Thầy cũng nhớ cho số điện thoại của thầy nhé”. Một ngày,  hai ngày,  ba ngày ... rồi mãi mong chờ mà không thấy hồi âm.

Sáng nay, nhận cuộc điện thoại từ thầy Chánh Huệ - Quảng Nam nói về thầy. Nói rằng: “Thầy Tâm Khanh tịch rồi”. Tôi trả lời luôn, làm gì có. Thầy Chánh Huệ bảo: “Thầy kiểm chứng lại đi nhé”. Sau đó tôi nhận được  hàng loạt tin nhắn của chư huynh đệ Cao cấp Phật học khóa III (CCPH K III). Thôi, đúng thật rồi. Tôi lặng người đến cả chục phút, vẫn còn vẳng bên tai: “Thầy Tâm Khanh tịch rồi”. Trong vô thức, tôi gọi ngay thầy Viên Giáo báo tin: “Thầy Tâm Khanh tịch rồi”. Thầy Viên Giáo lại nghi ngờ tin báo của tôi cũng như tôi nghi ngờ tin báo từ thầy Chánh Huệ. 

Ngồi trầm ngâm một tí, tôi giật mình với một linh cảm kỳ lạ: “Tại sao thầy Chánh Huệ lại gọi tôi. Tại sao tôi lại gọi thầy Viên Giáo (mà không phải gọi ai khác). Thầy  Tâm Khanh hay thầy Thanh Chương  mách đây? 

Quá khứ ùa về. Năm 1995, thầy Thanh Chương (tịch 2013) tổ chức giỗ tổ chùa Long Thiền, Sóc Trăng và mời tăng ni về dự. Chính thầy Tâm Khanh, thầy Viên Giáo, thầy Chánh Huệ và tôi, bốn anh em thay mặt huynh đệ CCPH khóa III miệt mài thâu đêm trên hai chiếc xe honda để có mặt ở Long Thiền dự giỗ. Nào đường xấu, nào trời mưa, nào xe hư, nào bị lạc đường ... đầy gian nan nhưng cũng đầy kỷ niệm. 

Khoảnh khắc nào gợi lại những ký ức đã qua? Nhiều quá. Mới thủa nào huynh đệ còn tất bật với việc họp lớp, họp trường; hết photo bài thi này lại  phổ biến quyển sách nọ; hết tổ chức chuyến từ thiện Đồng Tháp lại tổ chức chuyến khảo sát văn hóa Chăm pa Khánh Hoà; rồi ... sư trưởng  thầy này ốm, Phụ mẫu cô kia tịch, rồi 20/11, rồi luận văn, rồi kỷ yếu,  rồi áo mão cân đai ngày ra trường. ... Những khi hẹn nhau trời chưa kịp sáng, những lúc chia tay màn đêm đã mịt mờ; sớm tối rong ruổi phố phường, trưa chiều cơm quán, cơm bụi . . . 

Thế rồi, bốn năm miệt mài đèn sách, ngày ra trường cũng phải đến. Huynh đệ mỗi người một hướng; người thì về lại quê nhà lo tu tập, phụng sự nơi bổn tự, nơi giáo hội địa phương; người thì định cư ở hải ngoại; người thì du học phương xa ... Tuy vậy, tôi với thầy Tâm Khanh thi thoảng vẫn gặp nhau, có khi vài tuần, có khi một tháng. Năm 1998, thầy về Vĩnh Nghiêm nhập chúng an cư, chung ở cùng tôi căn phòng quen thuộc ngày nào suốt 3 tháng liền. Buổi họp chúng vào hạ, thầy được phân công giữ chức vụ Phó Chánh Thư ký Ban Chức sự Trường hạ. Năng lực và trí tuệ của thầy đã  góp phần đáng kể, tạo được nét mới trong sinh hoạt, tu tập của đại chúng suốt mùa hè năm ấy. 

Thầy đúng là một người “học ra học, tu ra tu”; các thời khoá đều duy trì, những buổi học, những buổi họp chúng, chấp tác đều dự đủ. Suốt 3 tháng cấm túc, tôi nhớ thầy về thăm chùa Liên Hoa - trú xứ thầy ở chỉ vài ba lần. 

Những tháng ngày đến trường, huynh đệ chỉ lo việc học, việc thi, việc cống hiến cho lớp, cho trường. Trong mắt tôi thầy chỉ là một bạch diện thư sinh không hơn. Nhưng không, thầy là người có tầm, am hiểu khá nhiều, ưu tư khá nhiều việc Giáo hội, việc xã hội và rất muốn phụng sự, rất muốn cống hiến. Nhưng định hướng của thầy thế nào thì tôi thật sự khó hiểu. Những buổi nói chuyện rất khuya và thầy thường kết thúc bằng từ ... “Khó nhể!”, rồi anh em cười xòa. Đi ngủ. 

Như một cái duyên, thầy vào làm báo Giác Ngộ, tham gia biên tập Nguyệt San, tôi cũng vào cơ quan ngôn luận này tham gia với vai trò Trưởng phòng Trị sự. 

Khánh An cũ kỹ ngày xưa, ngôi chùa quê tôi vừa nhận sau ngày ra trường không lâu, thầy rất thích chốn này và thường đến lúc ... nửa đêm để ngồi giữa đất trời hớp ngụm trà ngắm trăng đón gió. 

Một lần, thầy đến Khánh An chơi cũng lúc ... nửa đêm. Dường như có gì đó vội vàng lắm. Ngồi khoảng vài chục phút, hớp xong ngụm trà, thầy nói: “Vài hôm nữa tui đi Đài Loan nha ông”. Rồi chia tay, tiễn biệt, không gặp nhau nữa. 

Năm 2006, Tôi sang Mỹ dự đại lễ Phật đản năm Phật lịch tròn 2550. Qua nhiều tiểu bang và dự nhiều lễ hội Phật đản. Đến chùa Diệu Pháp ở Cali gặp lại thầy Nguyên Tạng. Lên chùa Phước Long, Connecticut do Hòa thượng Minh Đức trụ trì, bất ngờ gặp thầy và cả thầy Thiện Lợi cũng ở đây. 

Thế là huynh đệ có duyên được chung sống với nhau gần cả tháng trời. Tôi vẫn còn nhớ như in những thời khóa hành trì nơi  Phước Long, sớm công phu Lăng Nghiêm tối trì niệm A Di Đà. Ở đây vui lắm, chúng tôi cũng phân công nhau đi chợ, nấu cơm, quét chùa như những ngày còn ở chúng. 

Có lần Sư huynh Minh Đức hỏi: Đi chơi không. Mấy huynh đệ tôi cùng lên tiếng hưởng ứng, thế là cùng nhau ra xe. Lúc thì tảng bộ Midtown Manhattan, đến tưởng niệm nơi biến cố 911, mảnh đất mà mấy năm trước còn là  tòa nhà cao nhất thế giới; rồi ngồi thuyền ngắm tượng Nữ thần Tự do ở New York, khi thì ngồi nghe sóng lao xao ở Long Island Sound; thăm trụ sở Liên hiệp quốc, tòa Bạch Ốc, toà nhà Quốc Hội Mỹ, viện bảo tàng Kennedy,  Trường đại học Yale ... HT. Minh  Đức sức khỏe kém, đến mỗi nơi phải nghỉ chân. Trong khi thầy Tâm Khanh thì đi đến đâu thuyết trình tới đó. Nghĩ bụng “Ông qua đây mấy năm mà ở đâu, cái gì cũng biết vậy ông”. 

Có lần, thầy lái xe chở tôi đi Boston, Massachusetts thăm cô Huệ Bảo... Lên xe thầy nói: “Tui chỉ biết lái xe thôi đó nha, còn ông (TC) phải chỉ đường”. Tôi nói: “ông có nói ngược không đó?”. Thầy mỉm cười rồi lấy trong cóp  xe thiết bị chỉ đường, rồi nói: “Tui vừa lấy bằng lái nên phải tập trung chuyên môn, ông nhìn theo cái này quẹo phải, quẹo trái phải nhớ báo sớm nha, nhầm một đàng là mất ngàn cây số đấy”. Tôi trả lời vui, mất bao nhiêu cây số cũng không ngại, chỉ lo cái bằng lái còn nóng hổi của ông liệu có đưa tui đến được Boston. Rồi cả hai cùng cười. 



tt tam khanh 1Thầy Truyền Cường mời cơm tại chùa Vạn Phật, Q.5 ( khoảng 1995 -96) 


tt tam khanh 2“Hai thầy lớp phó” đến chùa Giác Lâm, Tân Bình mời thầy Đức Trường

nhận nhiệm vụ  làm lớp trưởng, năm 1995

tt tam khanh 3Hình hai huynh đệ chụp cùng thân mẫu, thân phụ  thầy Tâm Khanh năm 1996
tt thich tri chon

Tác giả hội ngộ cùng thầy Nguyên Tạng tại chùa Diệu Pháp, Cal,  nhân mùa Phật đản 2550 - 2006

tt thich tam khanh
Trái qua: Tác giả, Thầy Tâm Khanh, HT. Minh Đức (khóa 2, Vạn Hạnh), HT Vân Đàm... chụp tại Virginia, Hoa Kỳ, 2006.



Mới đây thôi, gặp lại cô Huệ Bảo ở Huê Lâm thế là huynh đệ vui mừng nhắc lại chuyện xưa, nhắc thầy Tâm Khanh đã đưa tôi đến Huê Lâm - Boston hôm nào.

Khoảng một tháng nay mấy huynh đệ CCPH K III, ai cũng thao thức muốn có được một buổi họp mặt đoàn viên. Có người bảo càng sớm càng tốt, có người lại nói nên thông báo rộng rãi để huynh đệ nước ngoài tựu về. 

Hỡi ơi, đang lúc đợi chọn ngày đoàn tụ, ngóng tin xa mong bạn hữu quay về. Vậy rồi, sáng nay thầy cũng về với chư huynh đệ, nhưng về bằng một tin mà không ai có thể tin. Rằng, thầy đã ra đi!

Thầy Tâm Khanh ạ! 

Hãy thảnh thơi ra đi để thảnh thơi quay lại với sự nghiệp độ sinh thầy nhé.

Sài Gòn, 25/05/2019

Trí Chơn

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6604)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6908)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 859)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33812)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4712)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4658)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4618)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4580)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4895)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4622)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567