Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng niệm Ni Sư Trí Hải Nhân mùa giỗ đầu năm của Ni Sư

11/08/201102:30(Xem: 7731)
Tưởng niệm Ni Sư Trí Hải Nhân mùa giỗ đầu năm của Ni Sư

thichnutrihai

 
     Xin xem thêm cuốn "Tưng nim Ni trưởng Thích N Trí Hi"

T

ôi với Ni Sư không cùng chung một lớp nhưng lại chung một trường. Thành phố Huế chỉ lớn bằng bàn tay nên dù không quen cũng thành quen, chuyện lớn chuyện nhỏ gì của nhau rồi dần dà cũng biết cả, nhất là Ni Sư lại là một người học trò giỏi nữa.

Thuở ấy Ni Sư là một nữ sinh Đồng Khánh áo trắng tóc thề, mắt sáng, da đã trắng mà má lại luôn luôn ửng hồng xinh xắn vô cùng, nên Tôn Nữ Hỷ Khương đã làm tặng Ni Sư mấy câu thơ như sau:

 

Chiếc nón nghiêng vành, bờ vai tóc xõa

Dáng yêu kiều hiện rõ nét ngây thơ

Đẹp làm sao đôi má hây hây

Thương biết mấy làn môi đỏ thắm!

 

Tuy vậy đã là học trò thì Ni Sư cũng không làm sao thoát được sự tinh nghịch quấy phá chẳng thua gì con trai. Một hôm trong giờ Anh văn, Thầy Tôn Thất Hanh (đã mất tháng 2.2004 tại Montréal, Canada) đang giảng bài, bỗng tiếng ve kêu inh ỏi vang trong lớp làm các bạn cùng nhau cười ré lên. Thầy bảo trò nào đem ve vào lớp thì đứng dậy và Ni Sư đã đứng lên nhận tội. Sau này Ni Sư ghi lại kỷ niệm vui đó qua bài thơ:

 

Thầy dạy con Anh văn

Mấy năm trường Đồng Khánh

Phong cách Thầy nho nhã

Kiến thức Thầy uyên thâm

 

Thầy phê con học giỏi

Nhưng nghịch như con trai

Vào lớp ưa quậy phá

Làm chia trí mọi người

 

Một lần kia vào lớp

Mang theo chú ve sầu

Con giấu kỹ trong cặp

Tới giờ nó kêu rân

 

Cả lớp nổi cười ầm

Thầy phạt con đứng lên

Nói được ve tiếng Anh

Thầy mới cho ngồi xuống

 

Con gãi đầu lúng túng

Thầy bảo con lên bảng

Viết chữ Cicada

Rồi cho con về chỗ

 

Ni Sư giỏi sinh ngữ từ hồi còn đi học, những buổi trưa ở lại lớp ôn bài ai cũng ngạc nhiên thấy Ni Sư học tự điển, nghĩa của những chữ thật khó Ni Sư đều biết, bạn bè tặng Ni Sư biệt danh là "Cuốn Tự Điển sống".

Sau khi đậu Tú Tài, Ni Sư học Đại Học Sư Phạm ban Anh văn rồi ra dạy tại trường Trung Học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng. Sau đó đi du học ở Mỹ về ngành thư viện, trong thời gian này Ni Sư kiếm thêm tiền sinh sống bằng cách đọc sách cho các bà Mỹ cao niên vì giọng phát âm rõ ràng và trong trẻo. Khi trở về nước Ni Sư vào làm Quản thủ Thư viện tại Đại Học Vạn Hạnh mà Viện Trưởng là Hòa Thượng Thích Minh Châu và quyết nuôi ý định xuất gia.

Thiền viện Vạn Hạnh đường Nguyễn Kiệm tại Sàigòn là một tòa nhà uy nghi to lớn. Bên cạnh Thiền viện có một con hẻm nhỏ dẫn đến một ngôi chùa khiêm tốn được gọi là Tịnh Thất của các Tỳ Kheo Ni, đó là nơi Ni Sư đã gởi thân mình vào cửa Phật và xả thân trong những công tác xã hội không biết mệt mỏi.

Ni Sư rất có hiếu với tổ tiên, có tình với bà con họ hàng. Có dịp là ghé thăm viếng những vị già nua đau yếu, Ni Sư thường đem đến cho họ sự dịu dàng thân mật, chịu khó ngồi hằng giờ nghe những lời tâm sự làm cho họ cảm thấy ấm cúng và bớt cô đơn

Ni Sư đã không quản nắng mưa, bão lụt, không ngại đường sá xa xuôi vào tận các xóm quê nghèo lầy lội, đến tận những mảnh đất tả tơi hoang tàn sau cơn bão lụt để giúp đỡ biết bao người cơ cực khôn cùng. Ni Sư đã đem nụ cười nhân ái của mình để chia xẻ với biết bao người không nhà cửa, xác xơ đói lạnh sau thiên tai ở A Lưới, An Lai, Quảng Điền (Huế); Đại Lộc (Quảng Nam), Triệu Đại (Quảng Trị), rồi ở Bù Đăng, Nghĩa Trung, Bình Phước, Long An, Sóc Trăng, Trà Vinh.

Trên quê hương Việt Nam thân yêu, nơi nào có thiên tai bất hạnh là nơi đó có "Đoàn Sứ Giả Từ Bi" của Ni Sư đến ủy lạo, cứu trợ, giúp đỡ. Để nối tiếp hạnh nguyện của một vị Thầy, Ni Sư đã đặt tên đoàn cứu trợ giống tên Đoàn Sứ Giả Từ Bi của Sư Bà Thể Quán ngày xưa ở Nha Trang (1964). Ngoài ra Ni Sư còn có chương trình bảo trợ hằng năm cho trường Mẫu Giáo bán trú như ở xã Hương Quảng, xã Hương Lộc; nuôi nấng dạy chữ, dạy nghề cho các trẻ em mồ côi; thường xuyên giúp đỡ ủy lạo những bệnh nhân ung bướu, những người già yếu, đau ốm tàn tật, phong cùi, mù lòa v.v... Đoàn Sứ Giả Từ Bi của Ni Sư còn đến nhiều nơi xa xôi hẻo lánh để giúp việc đắp cầu, đắp giếng nước. Ở những nơi này, già trẻ lớn bé quanh năm phải khổ sở về nạn thiếu nước. Hằng ngày quanh quẩn giặt tắm, lấy nước ăn uống trong những ao tù đục ngầu, hôi hám nhớp nhúa nên đã mang vào mình biết bao bịnh tật nhất là nhiễm trùng mắt.

Các Phật Tử, các nhà hảo tâm trong nước cũng như ở hải ngoại đã hưởng ứng, tích cực yểm trợ các công tác xã hội từ thiện của Ni Sư trong suốt mấy chục năm trời.

Khi đi cứu trợ ở huyện Bù Đăng, Ni Sư lại bị té chấn thương cột sống lần thứ hai (lần thứ nhất té ở Suối Tiên, Nha Trang, cột sống đã bị thương nặng) phải nằm liệt giường sáu tuần lễ. Ni Sư đã bình thản trước cái chết và không coi cái chết là quan trọng như Ni Sư đã viết trong "Lá Thư Vườn Tuệ":

 

"Sau một thời gian nằm dài trên giường bịnh, tưởng là không bao giờ còn cơ hội gặp lại các bạn dù chỉ là qua tờ Tuệ Uyển mỗi ba tháng một lần. Tôi đã âm thầm vui vẻ ngỏ lời vĩnh biệt với tất cả, quả thật là vui vì biết rằng dù có ra đi, lòng không buồn lắm.

Bây giờ có thể đi đứng được, lại có thể ngồi hằng giờ gõ máy, thực là một điều kỳ diệu nhưng tôi vẫn luôn luôn nghĩ mình còn phải trải qua một lần "như vậy" nữa để đi đến cái chết, cái "như vậy" về sau thế nào không cần biết như tự nguyện luôn luôn gắn bó với Pháp nghĩa là với sự Từ bỏ, với Chánh Kiến về Tánh Không và với tâm Bồ Đề. Người đã nếm mùi vị của Pháp là đã nếm Niết Bàn bất tử nên cái chết của thân xác không còn quan trọng".

 

Ni Sư còn sáng tác những tập thơ Ngọa bịnh ca, Báo ân ca với lời thơ thanh thản nhẹ nhàng, đầy Phật tính như bài "Nhắn Nhủ":

 

Thân này như bọt nước

Vô thường là lẽ thường

Chấm dứt ngay mộng tưởng

Sực tỉnh cơn mộng trường

 

Nếu không bịnh liệt giường

Làm sao ngộ sinh diệt

Diệt sinh từng hơi thở

Hết sinh diệt chân thường

 

Chẳng thà sống một ngày

Thấy được lẽ sinh diệt

Còn hơn sống trăm năm

Mê mẩn theo sắc trần

 

Hãy để tâm vắng lặng

Theo dõi hơi ra vào

Thấm nhuần chân, diệu, pháp

Trong từng mỗi tế bào

 

Những cống hiến của Ni Sư trong lãnh vực văn hóa, giáo dục, hoằng pháp và từ thiện luôn luôn không ngừng nghỉ. Ngoài việc dành nhiều thì giờ cho phiên dịch, biên soạn, sáng tác thơ và in sách, in Kinh giúp cho Tăng Ni, Phật Tử có thêm nhiều tài liệu nghiên cứu học tập, Ni Sư còn phổ biến giáo lý giải thoát và từ bi đến mọi tầng lớp quần chúng. Tất cả những việc làm của Ni Sư đã để lại trong lòng Phật Tử Việt Nam sự ngưỡng mộ và thương kính vô biên.

 

Ni Sư có viết thư cho Ngài Đạt Lai Lạt Ma để xin một tấm hình. Không ngờ Ngài đã gởi cho mà còn có chữ ký nữa. Sau đó Ni Sư đã dịch một tác phẩm của Ngài và nguyện chỉ uống nước thôi, không ăn trong suốt mười ngày để dịch cho xong.

 

Ngoài ra Ni Sư còn có một niềm mong ước rất lớn là được đi thăm dấu chân của Đức Phật. Khi bà con nghe Ni Sư đã có hộ chiếu, ai cũng mừng vui chia xẻ, không ngờ chuyện vui chưa được thực hiện thì Ni Sư đã ra đi khiến mọi người bàng hoàng ngẩn ngơ trước tin buồn quá đột ngột này!

Với số tiền của một Phật Tử ở xa do lòng ngưỡng mộ đức độ và lòng từ bi của Ni Sư mà cúng dường, Ni Sư đã mua được một mảnh đất ở Hốc Môn và đã lập nên Chùa Hốc Môn đơn sơ, giản dị, thoáng mát. Ngày trước Ni Sư hay về đây nghỉ ngơi và làm việc; bây giờ mộ phần của Ni Sư ở bên trái con đường dẫn vào chùa. Bức chân dung hiền hòa, đôn hậu tạc trên đá cẩm thạch đen xám, Ni Sư đang mỉm cười chào đón mọi người đến viếng thăm mộ phần. Cây cỏ xanh tươi, những con vật bằng đá xinh xắn nằm chen trong hoa lá như đang quanh quẩn bên mộ của Ni Sư. Dưới bức chân dung nổi bật giữa màu xanh của lá, ba đóa sen trắng muốt, một đóa sen nở và hai đóa sen hé; bên dưới mỗi đóa sen là một hũ cốt: hũ cốt của Ni Sư và của hai Sư Cô Tuệ Nhã và Tuệ Phúc.

 

Dù Ni Sư đã ra đi, dù trên cõi đời này đã mất đi một người nhiều tài năng đức độ, luôn luôn xả thân cho việc từ thiện nhưng Ni Sư vẫn còn hiện hữu trong trái tim của biết bao nhiêu người. Hình ảnh một vị chân tu với trái tim Bồ Tát sẽ mãi mãi không phai mờ trong ký ức của những người dân Việt Nam bất hạnh đã từng được Ni Sư cứu khổ. Ni Sư như một đóa hoa Ưu Đàm, hoa nở rồi tàn nhưng hương thơm muôn đời còn tỏa ngát.

Từ đây, chúng tôi vĩnh viễn mất đi:

-              Một bậc Thầy kính mến, nhân ái, gương mẫu trong Đạo;

-              Một Ni Sư toàn vẹn xứng đáng được Phật Tử Việt Nam tự hào;

-              Một tu sĩ Phật giáo xuất sắc, giỏi ngoại ngữ, giỏi viết văn, dịch sách, yêu thơ;

-              Một người bạn đài các dễ thương vui nghịch có tâm hồn nghệ sĩ cùng học chung trường Đồng Khánh; và

-              Một đồng nghiệp đạo đức, đầy tài năng mà khiêm tốn trong ngành Sư Phạm.

 

Cõi nhân sinh lại vắng thêm một người tài hoa đức hạnh và nhiệt tâm phục vụ con người cùng Đạo Pháp. Biết đâu Ni Sư đang tiêu dao cùng trăng sao vì Ni Sư đã từng nói "vui mừng sắp được thoát kiếp người" kia mà!

 

Một vì sao đã rơi

Một hoa Đàm đã rụng

Một người em đã khuất!

Hoằng dương Phật Pháp, cứu độ chúng sanh

Tâm nguyện của em nửa chừng đứt đoạn

. . . . .

Kể từ nay em đi vào bất diệt

Tới Niết Bàn hay về cõi vô sanh?

Thương thay cho người sống ở dương trần

Thiếu đuốc tuệ và thiếu người hướng dẫn!

 

(Trích bài "Khóc Em"

của Bác sĩ Công Tằng Tôn Nữ Phùng Mai)

(Tháng 12.2004- München)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6905)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 842)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33786)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4707)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4656)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4617)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4576)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4890)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4620)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7569)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567