Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tham luận: Tâm Minh Lê Đình Thám

07/04/201906:44(Xem: 6526)
Tham luận: Tâm Minh Lê Đình Thám

Tam Minh Le Dinh Tham-5


THAM LUẬN

TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM – BẬC HÀNH NGHI THÂN GIÁO

NCS: Thích An Nhiên (Nguyễn Ngọc Thành)

          Trong quyển “Việt Nam Phật giáo sử luận” có đoạn viết về cư sĩ Tâm Minh như sau: “Lê Đình Thám có lẽ là người cư sĩ đầu tiên ở thế kỷ XX đã dự phần vào việc đào tạo Tăng tài. Phật học của Ông được các bậc Tôn túc công nhận là thâm uyên, cho nên Ông đã được mời vào giảng dạy trong các Phật học đường Trúc Lâm và Tường Vân…”.[1] Với nhận xét như thế, chúng ta đã cảm nhận được đạo hạnh mẫu mực của một “Pháp sư cư sĩ”, Bác đã tận hiến đời mình cho xã hội, cho đạo pháp.  

         
Là một bác sĩ tài năng với thiên bẩm thông minh lại đam mê học hỏi nghiên cứu, Bác đã đạt học vị thủ khoa Y sĩ Đông Dương tại Hà Nội (1916), bác sĩ Y khoa ngạch Pháp quốc (1930) và địa vị giám đốc bệnh viện Bài Lao Huế (1933), Giám đốc Y tế Trung phần kiêm Giám Đốc Bệnh viện Huế (1945) và nhiều chức vụ khác… Bác luôn được mọi người kính trọng và yêu quý không phải vì địa vị, chức vụ mà vì khí chất thuần khiết của “bậc hành nghi thân giáo”, luôn khiêm cung, hòa nhã, luôn đặt mình vào hoàn cảnh người để cảm thông, luôn sách tấn bản thân để lấy đó làm tấm gương sống động cho học trò.

         
Nhân duyên vào đạo của Bác trong một dịp tình cờ khi hạnh ngộ với bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng tại chùa Non Nước. Bác pháp danh Tâm Minh là đệ tử của Hòa thượng Giác Tiên - người khởi xướng cho phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Trung. Trong giai đoạn giữa thế kỷ XIX và XX, Phật giáo nước ta đã có nhiều dấu hiệu suy yếu, nhiều phong trào chấn hưng Phật giáo được khởi xướng khắp nơi mang tính quốc tế. Thái Hư Đại sư tại Trung Quốc đã phát động công cuộc chấn hưng Phật giáo qua tạp chí “Hải Triều Âm”: “Đạo Phật ngày càng suy đồi, luật pháp ngày càng hư hỏng, tín đồ ngày càng hèn yếu, coi khác nào như đèn giác lu mờ, như mây phủ nguyệt, như thủy lờ gương?”[2] gây chấn động không nhỏ đến Phật giáo các nước, làm cho Phật giáo Việt Nam phải nhìn lại để hiệu chỉnh mọi hoạt động.

         
Thừa ý chỉ của Hòa thượng Bổn sư, đầu tiên Bác thành lập Hội An Nam Phật Học để có một tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động phát khởi phong trào chấn hưng. Hội đặt trụ sở tại chùa Trúc Lâm, sau đó dời về Chùa Từ Đàm. Đồng thời Bác Tâm Minh đã đề xướng thành lập Nguyệt san Viên Âm, Bác chủ nhiệm kiêm chủ bút. Số đầu tiên ra mắt độc giả vào ngày 01/03/1933, Tạp chí Viên Âm của Hội nhanh chóng được sự tín nhiệm của đông đảo độc giả, nhờ vào sự nỗ lực của cư sĩ Tâm Minh và các thành viên trong Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục[3].

         
Sau bốn năm Hội An Nam Phật Học hoạt động, Hòa thượng Giác Tiên viên tịch, đây là tổn thất lớn về mặt tinh thần cho Hội, mà Bác là Hội trưởng. Biến những mất mát đau thương thành hành động tiếp bước chí nguyện phục hưng chánh pháp của vị Thầy hướng đạo. Bác đã dõng dạt phát nguyện trước Giác linh của Hòa thượng bổn sư, lời phát nguyện ấy trở thành đường hướng hành trì cho con đường tu tập và phụng sự của Bác: “Chánh pháp cần phải truyền, chúng sanh cần phải độ, lời di huấn đó con nguyện xin gánh vác.”


Tâm nguyện thứ nhất,
Chánh pháp cần phải truyền:

        Bác noi theo bước chân phụng đạo ích đời, hai vai Bác gánh vác trọng trách một bên “truyền” một bên “độ”. Từ đây,“một mình Bác gánh lo mọi việc đời đạo song hành trong một chơn thể. Bác cũng chỉ có 24 giờ mỗi ngày như mọi người nhưng làm rất nhiều việc trí óc, tinh thần cho đến sự hoạt động của thể xác như con thoi không ngừng, hết lòng phục vụ đạo pháp nhân quần, không hề mỏi mệt và nhiệm vụ nào cũng xuất sắc chu toàn”.[4]

Để chánh pháp được cửu trụ, cần phải có thế hệ kế thừa để “truyền” trao, Bác bắt tay vào việc đào tạo Tăng tài, các trường Phật học nhanh chóng thành được lập như: Chùa Bảo Quốc, Chùa Tây Thiên, Chùa Diệu Đức trở thành những Phật học đường.

Năm 1933, mở trường An Nam Phật Học tại chùa Vạn Phước, sau đó dời về tại chùa Bảo Quốc do Hòa Thượng Trí Độ làm Đốc giáo.

Năm 1932, Trường ni được khai giảng đầu tiên tại Chùa Từ Đàm do Ni sư Diệu Hương làm giám đốc. Cuối năm, được dời về Chùa Diệu Đức.

Năm 1935, mở trường Sơn Môn Phật Học cấp đại học tại Chùa Trúc Lâm do Hòa thượng Giác Tiên làm Giám đốc; lớp Trung học mở tại Chùa Tường Vân do Hòa thượng Tịnh Khiết làm Giám đốc; Cấp Đại học tại Chùa Tây Thiên do chính Bác phụ trách giảng dạy về luận học và triết học, Đông Tây.

Năm 1944, Phật học đường Báo Quốc được dời về Tùng Lâm Kim Sơn ở xã Lưu Biểu, hoạt động một thời gian rồi dừng và một số học tăng tiếp tục vào Nam để cầu học.


Bác Tâm Minh được chư vị cao Tăng tin tưởng mời giảng dạy các môn triết học Đông Tây, Kinh và Luận. Mặc dù có một kiến thức cao rộng, nhưng cung cách của Bác rất khiêm cung, kính trọng chư Tăng, mỗi lần có giờ giảng, Bác luôn mặc áo tràng và đảnh lễ chư Tăng trước khi lên bục giảng. Hình ảnh này chính là bài pháp sống động nhất về thân giáo. Sự khiêm cung của Bác đã thể hiện rõ phong thái, khí chất của “bậc hành nghi” thông qua thân giáo – khẩu giáo – ý giáo nhất như: Đối với thân giáo, sống trọn nghĩa, vẹn tình trung với Tổ quốc, hiếu với nhân dân, tin thành với Tam bảo”, cả đời Bác đã tận tụy với nghề nghiệp, lao tâm với việc Hội, lao lực với việc báo chí, nhọc trí với việc Phật học viện, thế nhưng Bác không bao giờ xao lãng sự học tu và nghiên cứu. Đối với khẩu giáo, Bác là người vừa tạng thông, vừa thuyết thông, khéo vận dụng ngôn ngữ để phô diễn giáo pháp, chính nhờ lối giải thích, trình bày Phật pháp một cách giản dị, mộc mạc nhưng rõ ý, tròn lời, phù hợp với căn cơ, trình độ người tham dự. Đối với ý giáo, Bác đã đưa ra tầm nhìn chiến lược về nhân sự tương lai cho Phật giáo về việc đào tạo Tăng tài và thế hệ kế thừa thanh thiếu niên Phật tử, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển và hưng thịnh của Phật giáo. Bài thơ thể hiện được chí nguyện hoằng truyền cho thế hệ kế thừa được đăng tải trên Viên Âm số 17 tháng 9 năm 1935, như sau:

        “Bấy lâu vật vả kiếp phù trầm,

        Nay đặng vào tai tiếng Phạm âm,

        Tùy tiện trau dồi gương chánh kiến,

        Ứng cơ giảng giải lý duy tâm.

        Ngộ mê vẫn đủ ngôn, thân, ý,

        Sinh tử nguyên vì sát, đạo, dâm.

        Tam bảo từ bi xin mật hộ,

        Cho khi hoằng pháp khỏi mê lầm.”[5]


Bài thơ chỉ vỏn vẹn tám câu nhưng Bác đã tạo nên một dòng chảy về hành trình hoằng pháp lợi sanh. Bác trần tình từ lâu phải ngược xuôi lên xuống trong kiếp phù du ảo mộng, nay lãnh hội được tiếng Phạm âm vi diệu, tùy phương tiện thiện xảo, tùy vào pháp môn tu tập để ngộ được sự hiểu biết đúng với chánh pháp.Từ đó, tùy vào căn cơ trình độ của chúng sanh mà giáo hóa giúp họ trực nhận được chân tâm thanh tịnh. Người ngộ, kẻ mê cũng chỉ do “thân, khẩu ý” mà tạo tác, nếu “ba nghiệp thường thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”[6] đây chính là người giác ngộ, nếu ba nghiệp không thanh tịnh tương ứng nơi uế độ thì đây là kẻ mê. Nguồn gốc của sanh tử không ngoài ba trọng giới “Sát, đạo, dâm”; Nguyện Tam bảo thường gia hộ, để khi hoằng pháp lợi sanh đúng với tôn chỉ của Đức Phật không bị sai đường.


Bác làm nhiều việc trọng đại cho đạo pháp, nhưng lúc nào cũng giữ thái độ khiêm cung, Bác nghĩ, dù giảng dạy có ý tưởng hay, lời nói đẹp mà tâm không thành kính, hạnh không đoan nghi, thì lời pháp dù có hay cũng trở nên trống rỗng. Nếu thân mà không nghiêm, việc làm không chánh trực thì cho dù nói lời hay, ý tưởng đẹp đều không có giá trị giáo dục, không thể chuyển hóa người khác, Đức Phật dạy:

“Trước hết tự đặt mình

Vào những gì thích đáng

Sau mới giáo hóa người

Người trí khỏi bị nhiễm”[7] 


Tâm nguyện thứ hai, Chúng sanh cần phải độ:

Với tầm nhìn chiến lược cho tương lai Phật pháp, Bác không chỉ giảng dạy và mở các lớp giáo lý cho các Phật tử và giới trí thức, mà Bác quan tâm đặc biệt đến giới trẻ - đội ngũ thanh thiếu niên của Phật giáo. Tại Đại hội đồng của Tổng Hội An Nam Phật Học tại Huế. Bác Tâm Minh Lê Đình Thám đã phát biểu “Không có thành tựu bền vững nào lại không nhắm tới hàng ngũ Thanh Thiếu niên. Họ là những người tiếp nối chúng ta trong ngày mai…” lời tuyên bố ấy như một lời phát nguyện thứ hai. Bác tập hợp thanh thiếu niên trí thức thành lập Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục, Gia đình Phật Hóa Phổ về sau trở thành Gia đình Phật tử nhằm giáo dục giới trẻ có được nếp sống hướng thiện theo đạo đức Phật giáo. Đây là mô hình rất hợp thời đại, không chỉ là sự hỗ trợ tích cực xã hội, mà còn phát huy được lợi thế hoằng pháp. Hình thức này được gọi là tùy căn cơ mà hoằng pháp, Phật giáo vào đời theo nhiều phương cách khác nhau, tùy duyên giáo hóa để đem đạo đến gần với giới trẻ.

Có thể nói, với hai lời phát nguyện mà bác Tâm Minh Lê Đình Thám đã quỳ trước Giác linh Hòa thượng Bổn sư, cuộc đời Bác vun bồi để cống hiến cho tròn nguyện bằng nhiều thành tựu: Bác là người đã thiết lập những cơ sở giáo dục Tăng tài, đào tạo đội ngũ kế thừa cho Phật giáo phát triển vững mạnh; Bác mở các lớp giáo lý giảng dạy cho Phật tử và giới trí thức hiểu biết về Phật pháp; Bác là người đã “đại chúng hoá” Phật giáo đến mọi giới, thành lập nhiều niệm Phật đường, chùa ở nhiều nơi để truyền bá Phật pháp; Bác cũng đã phiên dịch nhiều bản kinh ra tiếng Quốc Ngữ để cho dễ hiểu, dễ tiếp cận; Bác là người đầu tiên đem Phật giáo đến với thanh niên trí thức, thiết lập hệ thống Gia đình Phật tử Việt Nam.

          Cuộc đời Bác Tâm Minh - Lê Đình Thám là một tấm gương soi sáng về “hành nghi thân giáo” trở thành một phương thức giáo dục chuẩn mực, quy phạm cho một Phật tử thuần thành. Thân hành trang nghiêm, lời nói đi đôi với hành động của Bác đã tạo nên sức thuyết phục và chuyển hóa hội chúng hướng mọi giới quy ngưỡng về với chánh pháp. Thật xứng đáng với lời nhận xét của Nguyễn Lang: “đệ tử tại gia xuất sắc nhất của Giác Tiên hẳn là Tâm Minh Lê Đình Thám.”[8] Bác phụng sự hết mình, vun đắp thêm vào trang sử một tấm lòng sắc son vì Đạo pháp.



THAM KHẢO

-     Thích Đồng Bổn (chủ biên, 1995), Tiểu Sư Danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX. Thành Hội Phật Giáo TP.HCM

-     Thích Minh Châu (dịch, 1999), Kinh Tiểu Bộ 1, Pháp Cú, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam,TP. Hồ Chí Minh.

-     Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm (2006), Lịch Sử Phật Giáo Huế, Nxb. Văn Hoá Sài Gòn.

-     Thích Trung Hậu - Thích Hải Ấn (2011), Chư Tôn Thiện Đức & Cư Sĩ Hữu Công Phật Giáo Thuận Hóa  - Tập 2, Cư Sĩ Lê Đình Thám (1897 – 1969) Pháp Danh: Tâm Minh, Nxb. Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

-     Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 3, Nxb. Văn Học, Hà Nội.

-     Tạp chí T Bi Âm, Mục đích của Từ Bi Âm.

-     Đức Quảng, Bác Tâm Minh – Lê Đình Thám – Đạo tâm  an lạc huyền vi, https://gdptvietnam.org/tuong-niem-bac-tam-minh.gdpt

-     Hòa thượng Thích Trí Quang (dịch giảng), Tỳ Ni Nhật dụng thiết yếu, https://thuvienhoasen.org/a2600/3-ty-ni-nhat-dung-thiet-yeu

 



[1] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 3, Nxb. Văn Học, tr.89

[2] Tạp chí T Bi Âm, Mục đích của Từ Bi Âm

[3] Thích Hải Ấn & Hà Xuân Liêm (2006),  Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb.Văn Hóa Sài Gòn, tr. 403

[4] Đức Quảng, Bác Tâm Minh – Lê Đình Thám – Đạo tâm  an lạc huyền vi, https://gdptvietnam.org/tuong-niem-bac-tam-minh.gdpt

[5] Thích Trung Hậu - Thích Hải Ấn (2011), Chư Tôn Thiện Đức & Cư Sĩ Hữu Công Phật Giáo Thuận Hóa  - Tập 2, Cư Sĩ Lê Đình Thám (1897 – 1969) Pháp Danh: Tâm Minh, Nxb. Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr.659.

[6] Hòa thượng Thích Trí Quang (dịch giảng), Tỳ Ni Nhật dụng thiết yếu, https://thuvienhoasen.org/a2600/3-ty-ni-nhat-dung-thiet-yeu

[7] Thích Minh Châu (dịch, 1999), Kinh Tiểu Bộ 1, Pháp Cú, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam,TP. Hồ Chí Minh, tr.63.

[8] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật Giáo sử luận, Nxb. Văn Học, Hà Nội, tr. 817.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2010(Xem: 9514)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4493)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4336)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6358)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5170)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7657)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6059)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12779)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
05/12/2008(Xem: 8426)
Hình ảnh Mừng Sinh Nhật Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Ngày 5-12-2008 tại Cao Hùng , Đài Loan tại Nhà Hàng 200 Món Đồ Chay Do Đạo Hữu Tony và quý Phật tử trong phái đoàn Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ tổ chức
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567