Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài Minh Nói Về Hạnh Nguyện Của Thiền Sư Mật Khế

27/03/201906:59(Xem: 5468)
Bài Minh Nói Về Hạnh Nguyện Của Thiền Sư Mật Khế

ht mat khe

Bài Minh Nói
Về Hạnh Nguyện Của Thiền Sư Mật Khế

Điều ngự tử Tín Nghĩa sưu khảo


          Lời người sưu khảo :Thiền sư Mật Khế là vị đệ tử lớn của Tổ Giác Tiên, khai sơn Trúc  Lâm Đại Thánh tự tại cố đô Huế. Tất cả Hạnh nguyện của Ngài đã có đủ trong bài Ký và bài Minh do cụ Bác sĩ Tâm Minh Lê ĐìnhThám phụng soạn và được Hòa thượng Thích Giác Nhiên, đương kim Chứng minh Đại Đạo sư cho hội An Nam Phật Học duyệt. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi muốn nói thêm rằng :

Thiền sư Mật Khế làTăng sĩ trẻ duy nhất tại Cố đô Huế trực tiếp làm Giáo sư cho hàng hàng lớpTăng Ni miền Trung tựu học tại trường Phật học Vạn Phước, là một vị phóng viên tài ba đã từng cùng với Pháp sư Trí Độ đi khắp miền Trung từ Quảng Ngãi ra đến Quảng Trị lấy tin tức Phật giáo về để làm báo chí. Cũng là vị Giảng sư trẻ tuổi nhất được Đức Từ Cung Đoan Huy Hoàng Thái Hậu mời vào cung đình để giảng dạy Di Đà Sớ Sao cho Hoàng tộc và quan lại của triều đình ; cũng là vị Tăng trẻ được Hội An Nam Phật Học trực tiếp xây tháp phụng thờ Ngài Tổ Đình Trúc Lâm.
(Quý vị muốn rõ thêm chi tiết xin mời đọc cuộc đời và Hành trạng của Ngài trong cuốn Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế, của tác giả Tín Nghĩa hay Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang)


 

* * * * * *

Dưới đây là toàn văn bài Bia và bài Minh vừa chữ Nho, vừa phiên âm và dịch nghĩa. Có phần phóng ảnh phần chữ Nho để quý vị thông Nho đọc khỏi ngh ingờ. Kính đa tạ - TínNghĩa

Sắc Tứ Trúc Lâm Đường Thượng Tì Kheo Tâm Địa Mật Khế Sung Phật Học Hội Giảng Sư Chí Minh (Văn bia ngài Mật Khế)

Hòa thượng Giác Nhiên duyệt  -  Tâm Minh Lê Đình Thám soạn

 ht mat khe (1)

          Chữ nho :

勅賜竹林大聖寺當上比丘心地密契充佛學會講師誌銘。

密深微妙法

契機方便

了悟宗旨時

法法何曾

如是妙法,離言相,離名字相,不垢不浄,不断不常,本自無生,應有感 , 悟微斯旨,其唯佛學會,講師密契乎! 講法名心地,號密契,承天府,香水縣,神符社,黎族人也。

          Phiên âm :

         

          Sắc tứ Trúc Lâm Đại Thánh tự đường thượng Tỷ kheo Tâm Địa Mật Khế sung Phật Học hội Giảng sư chí minh.

 

         Mật thâm vi diệu pháp,

Khế cơ phương tiện thuyết,

Liễu ngộ tông chỉ thời,

Pháp pháp hà tằng thuyết.

 

Như thị diệu pháp, ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng, bất cấu bất tịnh, bất đoạn bất thường, bổn tự vô sanh, ninh ứng hữu cảm, ngộ vi tư chỉ, kỳ duy Phật học hội Giảng sư Thích Mật Khế hồ ! Giảng sư pháp danh Tâm Địa, hiệu Mật Khế. Thừa Thiên phủ, Hương Thủy huyện, Thần Phù xã, Lê tộc nhơn dã.

 

Dịch nghĩa :

 

          Bài Ký và bài Minh nói về hành trạng của Giảng sư hội An Nam Phật Học là Tỷ kheo pháp danh Tâm Địa, pháp tự Thích Mật Khế, huynh trưởng chùa Sắc tứ Trúc Lâm Đại Thánh – Huế.

 

          Pháp vi diệu thâm mật,

Khế cơ phương tiện thuyết,

Liễu triệt diệu chỉ ấy,

Pháp pháp thường như vậy.

 

          Không thể dùng ngôn ngữ văn tự để nói lên được, buộc lòng người ta tạm nói là “ly ngôn thuyết tướng”. Pháp tự nó là nó, nó không là gì hết, song đầu óc của con người lại gắn cho nó một tên gọi. Tên gọi ấy chẳng phải là tự thân của pháp, vì thế ở vào lãnh vực tối vi diệu, nơi đây buộc lòng người ta phải nói : “ly danh tự tướng”. Nó bất cấu, bất tịnh, chẳng phải đoạn diệt, chẳng phải thường còn. Pháp vốn vô sanh. Ai là người thiệt sự am hiểu một cách tường tận về diệu nghĩa ấy ? Duy chỉ có Giảng sư của hội An Nam Phật Học Thích Mật Khế !

          Giảng sư dòng họ Lê, sanh quán tại làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, xuất gia có pháp danh thượng Tâm hạ Địa, pháp tự Thích Mật Khế.

 
ht mat khe (2)

          Chữ nho :

色座如幻,何妨地異繁花,名相本空,豈論耶非權貴,常生智慧,英名早播于童年,深種善根,出家方界天九,因非淺,受訓度於竹林寺覺先證明大師,戒律精通,進圓具於西天寺心堂頭和尚,利生大願,得許求安,弘法深心,遍處參學斯道,幾度在天與十塔,開悟於字裏行間,有時而順化廣南,敷演於沙門居士。

 

          Phiên âm :

 

          Sắc tòa như huyễn, hà phương địa dị phồn hoa, danh tướng bổn không, khởi luận da phi quyền quý, thường sanh trí tuệ, anh danh tảo bá vu đồng niên, thâm chủng thiện căn, xuất gia phương giới thiên cửu tuế, nhơn duyên phi thiển, thọ huấn độ ư Trúc Lâm tự Giác Tiên Chứng minh đại sư, giới luật tinh thông, tấn viên cụ ư Tây Thiên tự Tâm Tịnh đường đầu Hòa Thượng, lợi sanh đại nguyện, đắc thiểu ninh hứa cầu an, hoằng pháp thâm tâm, biến xứ tham học tư đạo, kỷ độ tại Thiên Hưng Thập Tháp, khai ngộ ư tự lý hành gian, hữu thời nhi Thuận Hóa Quảng Nam, phu diễn ư Sa môn cư sĩ.

 

          Dịch nghĩa :

 

          Cõi sắc tướng như tuồng huyễn mộng, sao còn đất lạ mới phồn hoa. Danh tướng xưa nay vốn không, sao còn luận bàn không nhà quyền quý. Tự tâm thường sanh trí tuệ, tiếng tốt thuở còn đồng niên. Đã khéo trồng thiện căn, xuất trần ngày lên chín (9 tuổi). Nhờ nhơn duyên sâu dày, sớm thọ huấn với lão Hòa Thượng Giác Tiên, khai sơn Trúc Lâm Đại Thánh tự, đồng thời là sáng lập viên, là Chứng minh Đạo sư của hội An Nam Phật Học.

          Tự thân của Giảng sư, giới luật trinh bạch, kiên trì và tinh thông. Giảng sư được thọ cụ túc giới với Đại lão Hòa Thượng Tâm Tịnh khai sơn chùa Tây Thiên.

Chí nguyện lớn lúc nào cũng hướng đến lợi sanh, dù việc nhỏ cũng hứa khả yên lòng, chí hoằng pháp sâu sắc, lại diệu vợi, tự thân bôn ba khắp mọi nẽo trong chốn Thiền môn, với dụng tâm tìm sâu vào ý đạo. Có những chuỗi ngày học đạo với ngài Tuệ Pháp chùa Thiên Hưng, rồi lại mấy lần cất bước vân du tham học với ngài Đại lão Hòa Thượng Phước Huệ tại chùa Thập Tháp xứ Quy Ninh (nay là tỉnh Bình Định). Từ đó, tâm trí ngày càng sáng lên qua câu kinh bài kệ và bắt nguồn từ Kinh Luận ấy, ngấm ngầm hướng dẫn Giảng sư có một cuộc sống vô cùng nhàn hạ !

Đã có những lúc đến Thuận Hóa, cũng có những lần về lại Quảng Nam, tuyên dương đạo mầu, trước chư vị đại Sa môn, trước muôn ngàn cư sĩ mến mộ.

 
ht mat khe (3)

Chữ nho :

學半功倍逆知深厚宿根,詞易義明,何止貫通教藏,毘尼嚴浄,行解相應,般若圓融,理事無礙,佛學會多畨說法,聖眾心,萬福寺一年講經,山門生色。甲戌秋,講師奉慈端幑皇太厚旨召,開講彌陀疏鈔,闡明唯心樂國,顯如来之覺不覺,伏自涅槃。

 

Phiên âm :

Học bán công bội nghịch tri thâm hậu túc căn, từ dị nghĩa minh, hà chí quán thông giáo tạng, Tỳ ni nghiêm tịnh, hạnh giải tương ưng, Bát nhã viên dung, lý sự vô ngại, Phật học hội đa phiên thuyết pháp, thánh chúng khuynh tâm, Vạn Phược tự nhất niên giảng kinh, sơn môn sanh sắc. Giáp Tuất thu, giảng sư phụng Từ Cung Đoan Huy Hoàng Thái Hậu chỉ triệu, khai giảng Di Đà sớ sao, xiểu minh duy tâm Lạc quốc, hiển Như Lai chi giác bất giác, phục tự niết bàn.

 

Dịch nghĩa :

 

Với giảng sư dụng tâm về việc học, dù mới một nửa công phu, song nhờ vào thiện căn thông tuệ ; nên mức độ nhận thức am tường, thấu hiểu vô cùng thâm hậu, nói năng giản dị song nghĩa lý sâu sắc, thấu suốt tận nguồn Pháp tạng. Tỳ ni, Oai nghi giới luật tuân hành cẩn trọng. Do vậy, biểu lộ vào cuộc sống hằng ngày, người ta thấy nơi con người Giảng sư hạnh và giải lúc nào cũng tương quan ảnh hiện mà không hề trái chống. Bát nhã trí ngài đã nhập diệu, cho nên với Ngài lý vô ngại, mà sự cũng vô ngại. Tại Hội trường của hội An Nam Phật Học, Thầy đã tằng giảng thuyết, khiến cho người nghe phải dốc lòng mến mộ. Tại chùa Vạn Phước, Thầy đã giảng Kinh và dạy Luật cho cả một thế hệ Tăng Ni tham học khắp sơn môn chốn kinh thành Hương giang Ngự lãnh. Nhờ vậy, Ngài đã khơi dòng trí tuệ tận nội tâm cho một lớp người phát túc siêu phương.

Mùa thu năm Giáp Tuất, Thầy dược Từ Cung Đoan Huy Hoàng Thái Hậu cung thỉnh vào nội cung thuyết giảng về bộ kinh A Di Đà Sớ Sao. Dịp ấy, Thầy đã khéo sử dụng ngôn ngữ văn tự làm cho vua quan nghe giảng đều thấu hiểu diệu lý “Duy tâm Tịnh Độ”. Đồng thời cũng bắt nguồn từ đó, mọi học viên đều hiểu “Như Lai tạng tâm” là cảnh giới sau khi hành giả đã quántriệt phương diện bất giác của nội tâm (giác bất giác). Thiệt sự thấu hiểu tường tận như vậy, gọi là đã tự đặt mình vào cảnh giới của Niết bàn.

 
ht mat khe (4)

Chữ nho :

示陀那後之眞非眞,圓成妙有,幻心幻境,稱性即空,不去不来,守屍奚益。保大十年,講師年方三十一,病中得法於本師覺先偈曰:

心地光含法性圓

西来大意顯南天

豁然直徹曹溪路

免在玲五十年。

乃於此年佛慶誕日卯時圓寂。

噫!佛法難起如此其極世界,不乏飯粥増壽命,何獨短於我講師密契哉。

 

Phiên âm :

 

Thị đà na hậu chi chơn phi chơn, viên thành diệu hữu, huyễn tâm huyễn cảnh, xứng tánh tức không, bất khứ bất lai, thủ thi hề ích ! Bảo Đại thập niên, giảng sư niên phương tam thập nhất tuế, bịnh trung đắc pháp ư Bổn sư Giác Tiên kệ viết :

Tâm địa quang hàm pháp tánh viên,

Tây lai đại ý hiển Nam thiên,

Khoát nhiên trực triệt Tào Khê lộ,

Miễn tại linh đình ngũ thập niên.

Nãi ư thử niên Phật khánh đản nhật Mão thời viên tịch. Y ! Phật Pháp nan khởi nhi thử ký cực thế giới, bất phạp phạn chúc tăng thọ mạng, hà độc đoản ư ngã giảng sư Thích Mật Khế tai !

 

Dịch nghĩa :

 

Tối hậu của nội tâm giác ngộ là am hiểu tường tận về cảnh giới “Đà Na vi tế thức”. Cảnh giới ấy là chơn mà cũng là “phi chơn”. Và cũng bắt nguồn từ đây, tự nó viên thành tính diệu hữu. Hành giả có được mức độ nhận thức đến như thế rồi, lập tức tận chiều sâu nội tâm thấy “Tâm là huyễn mà cảnh cũng là huyễn”. Bây giờ tận chơn tâm (xứng tánh) mới thiệt sự am hiểu tường tận về cảnh giới “tức không”. Cảnh giới “tức không” ấy xưa nay vẫn là “vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”(bất khứ bất lai). Qua đó cho ta thấy, “khăng khăng ôm giữ có được ích gì”

Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 10, Giảng sư vừa tròn 31 tuổi. Trong cơn bệnh, Ngài lại đắc pháp với Bổn sư là Giác Tiên lão Hòa Thượng. Kệ rằng :

 

Tâm địa sáng ra pháp diệu tâm,

Tây lai Tổ ý rọi trời Nam,

Bỗng nhiên hội ngộ Tào Khê lộ,

Thôi khỏi bận lòng mấy chục năm.

 

Vào giờ Mão ngày Khánh đản đức Bổn sư năm ấy, Giảng sư viên tịch.

Ôi ! Có phải chăng đây là thời kỳ Phật pháp khó bề hưng thịnh ? Ai là người ở vào lúc tận cùng thế giới mù khơi không thiếu thọ mạng, sao mà riêng chỉ có Thích Mật Khế, Giảng sư của hội An Nam Phật Học, thọ mạng lại ngắn ngủi như vậy !

 

ht mat khe (5)

Chữ nho :

嗚呼!講師戒德純真,慧根世,平常日用,不離自性彌陀,無意語言,都是大乗秒旨, 開示法界性,第一義重得,宣堅固菩提心,佛學會賴成立。雖示樂邦有願,蓮池自在化生,可憐忍土慈悲願切護法心欣嘆,

世間之空虚念,衆生之眼目得,命余記講師法施功德以最未来。余不量力受有此舉述其行庶之系,以銘曰 :

  

Phiên âm :

 

Ô hô ! Giảng sư giới đức thuần chơn tuệ căn tuyệt thế, bình thường nhật dụng, bất ly tự tánh Di Đà, vô ỹ ngữ ngôn, đô thị Đại thừa diệu chỉ, khai thị pháp giới tánh, đệ nhất nghĩa trùng đắc, tuyên dương kiên cố Bồ đề tâm, Phật học hội lại dĩ thành lập. Tuy thị Lạc bang hữu nguyện, liên trì tự tại hóa sanh, khả lân nhẫn độ diệu duyên. Đàm hoa hà thần tái đổ. Phật học hội đồng nhơn từ bi nguyện thiết hộ pháp tâm hân thán, thế gian chi không hư niệm, chúng sanh chi nhãn mục đắc. Mạng dư ký giảng sư pháp thí công đức dĩ tối vị lai. Dư bất lượng lực hữu thử cử thuật ký hành trạng thứ chi hệ, dĩ minh viết :

 

Dịch nghĩa :

 

Ô hay ! Giới đức của Giảng sư thuận bề chân chánh. Tuệ nhãn của Giảng sư tuyệt thế vô luân. Sinh hoạt bình thường vẫn không rời Di Đà tự tánh. Vô ý xuất ngôn vẫn trọn ý nghĩa Đại thừa diệu chỉ. Pháp tánh đệ nhất nghĩa luôn luôn được Giảng sư tuyên dương, khiến cho Bồ đề tâm càng thêm kiên cố. Hội An Nam Phật Học nhờ đó mà được thành tựu.

Tuy cũng có ước nguyện thác sanh vào ao sen giải thoát ở quán Tây bang Cực lạc, song cũng phải thương tình cho tính nhẫn nại nơi quốc độ diệu duyên này, chẳng biết ngày nào hoa Ưu Đàm mới có duyên tái ngộ !

Mọi người ở hội An Nam Phật Học đồng khởi từ bi tâm, nhất niệm nguyện khắc cốt ghi tâm, dù hoàn cảnh nào cũng hoan hỷ hộ trì chánh pháp. Song, không sao tránh khỏi bi tâm mà rằng : Công đức pháp trí của Giảng sư Thích Mật Khế, đối với nhiều thế hệ là vô lượng vô biên, không sao nói lên hết được ; vì rằng pháp trí là nhãn mục của mọi người. Thế nên nay đây, tôi đã không tự lượng sức mình, chỉ sơ lược một bài ký như trên và bài minh như sau :

 
ht mat khe (6)

Chữ nho :

身非有

心性本空

於斯究竟

宗通通。

有大醫師

圓融

施靈妙藥。

哀愍衆生

受三途苦

豁破迷雲

普施法雨。

 

Phiên âm :

Uẩn thân phi hữu,

Tâm tánh bổn không,

Ư tư cứu cánh,

Tông thông thuyết thông.

 

Hữu đại y sư,

Tri kiến viên dung,

Thí linh diệu dược,

Liệu bỉ quần mông.

 

Ai mẫu chúng sanh,

Thọ tam đồ khổ,

Khoát phá mê vân,

Phổ thí pháp vũ.

         

Dịch nghĩa :

 

Thân ngũ uẩn chẳng thường,

Tâm diệu hạnh chơn không,

Cứu cánh diệu lý này,

Tông thông thuyết cũng thông.

 

Y vương bậc Đại sư,

Tri kiến tợ thái hư,

Tìm thuốc cứu thế nhơn,

Độ khổ hiện lẽ chơn.

 

Vì thương thương chúng sanh,

Thọ nhận Tam đồ khổ,

Vẫy áo vẹt mây mờ,

Bỉ ngạn đưa đến bờ.

 

ht mat khe (7)



Chữ nho :

契理契機

開示未悟

功德昭彰

湛然常住。

保大十年,乙亥七月佛歡喜日,佛學會證明大導師覺然和尚閲。佛學會副會長心明黎廷探和南奉僎。

學會敬立。

 

 

Phiên âm :

 

 

Khế lý khế cơ,

Khai thị vị ngộ,

Công đức chiêu chương,

Trạm nhiên thường trú.

 

                              Bảo Đại thập niên, Ất Hợi thất nguyệt Phật hoan hỷ nhật. Phật học hội Chứng minh Đại đạo sư Giác Nhiên Hòa Thượng duyệt.

Phật học hội Phó Hội trưởng Tâm Minh Lê Đình Thám hòa nam phụng soạn.

Phật học hội kính lập.

 

Dịch nghĩa :

 

Vì khế lý khế cơ,

Mở bày kẻ chưa ngộ,

Công đức rạng ngàn thu,

Vắng bặt nơi thường trú.

 

                    Bia dựng vào triều Bảo Đại thứ 10, năm Ất Hợi, tháng bảy ngày Phật hoan hỷ.

 

                    Chứng minh Đại đạo sư hội An Nam Phật Học, Hòa Thượng Giác Nhiên duyệt.

 

                    Phó Hội trưởng hội An Nam Phật Học Tâm Minh Lê Đình Thám cẩn soạn.

 

Hội An Nam Phật Học bái lập.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2010(Xem: 7055)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6658)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6954)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 1039)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 34011)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4769)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4694)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4657)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4601)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4941)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567