Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con đường về đất Phật

15/02/201909:28(Xem: 4484)
Con đường về đất Phật
      HT Thich Nhu Dien (10)    

Con đường về đất Phật
             Nguyên Hạnh HTD

 

      Trong cuộc sống, người ta thường chọn cho mình một mục tiêu để tiến tới. Riêng tôi, thường tìm về những mưu cầu tâm linh để thăng hoa cuộc sống của mình.

      Điều làm cho cuộc đời tôi thay đổi khi tôi cảm nhận được ánh sáng nhiệm mầu của Phật pháp đã sáng soi khởi nguồn từ thuở ấu thơ. Có thể nói sự đưa đẩy tìm về ánh sáng Phật pháp đã đến với tôi rất sớm bắt nguồn từ sự thiếu thốn tình thương một người Mẹ của đứa bé vừa lên một tuổi đã mồ côi.

      Trải qua thời thơ ấu kéo dài với cảm giác bơ vơ, lạc lỏng cho đến khi 12 tuổi vừa lên bậc trung học, tôi ghi tên gia nhập vào Gia đình Phật tử. Ban đầu, tôi chỉ muốn tìm vui qua những người bạn để khỏa lấp tâm trạng cô đơn của mình. Nhưng dần dần những bài học Giáo lý Phật pháp thấm vào trong tôi lúc nào không hay nên thời gian sau cơ duyên đưa đến; tôi gặp được Hòa Thượng Minh Châu và Thầy đã làm lễ quy y cho tôi với pháp danh Nguyên Hạnh. Thời gian sinh hoạt với gia đình Phật tử tuy có nhiều gian nan ngăn trở, nhưng tôi đã cố gắng vượt qua tất cả.

       Khi trưởng thành, lập gia đình, tôi có mái ấm riêng. Việc đến chùa chiền, tụng kinh niệm Phật không còn là vấn đề nữa. Tôi có thể tự làm chủ chính mình cho việc nuôi dưỡng tinh thần qua Phật pháp. Giữa khi ấy biến cố thời cuộc thay đổi. Ngày 30-4- 1975 miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản. Bọn chúng là lũ vô thần nên đã cắt đứt con đường tâm linh như đường huyết mạch của con người. Chùa chiền, Sư Thầy luôn bị dòm ngó, làm khó dễ; chưa kể, cuộc sống con người trong thời gian đó hoàn toàn bị bế tắc. Trước tình trạng chung của cả nước, ai cũng muốn tìm đường ra đi. Trong số đó có gia đình tôi. 

       Sau khi qua Đức, đời sống được ổn định có công ăn việc làm, tôi vẫn cảm thấy đời sống tâm linh thật cần thiết. Tôi tìm đọc những báo chí liên quan đến các chùa, trong đó tờ báo Viên Giác là tờ báo có uy tín nhất. Tôi say mê đọc và ao ước được là một thành viên của tờ báo. Tôi liền viết bài và gởi đến tòa soạn, không ngờ dần dà bài của tôi được chọn. Không làm sao diễn tả hết nỗi niềm sung sướng của tôi khi lần đầu tiên được thấy tên mình cũng nằm trong tờ báo. Càng không ngờ có một ngày, tôi được chọn vào trong nhóm "Những Cây Bút Nữ " do Anh Chủ Bút Phù Vân sáng lập. Và được ra chung với nhau một cuốn " NCBN 1 " rồi qua  " NCBN 2 ".

     Chúng tôi rất hãnh diện đã được có tên trong ban biên tập báo Viên Giác. Một tờ báo đã tồn tại được 40 năm, định kỳ hai tháng một lần với con số xuất bản lên đến hằng ngàn và đã tung bay ra muôn phương. Tôi chưa từng thấy có một tờ báo nào ở Hải ngoại được đứng vững vàng lâu như vậy với thời gian. Điều đó cho thấy rằng dưới sự điều hành của Hòa Thượng Phượng Trượng với tư cách Chủ nhiệm và cánh tay phải đắc lực của Thầy chính là Ông Chủ bút Phù Vân cùng nhiều yếu tố khác cũng không kém phần quan trọng đã mang lại sự thành công rực rỡ này.

      Ngày đó, tôi chỉ là kẻ đứng xa nhìn thấy Thầy với tất cả lòng tôn kính mà thôi. Nhân dịp con trai tôi cưới vợ, lễ cưới được tổ chức tại chùa Viên Giác - do con dâu tôi có bà mẹ đang tu ở chùa - nên đã nhờ Thầy đứng chủ hôn. Từ đó tôi mới có dịp được tiếp xúc với Thầy nhiều hơn, chứ ngày trước tôi đâu dám đến gần Thầy mà chỉ " kính nhi viễn chi " mà thôi.

     Tôi đã may mắn gặp được Thầy nhiều lần hơn. Niềm tin của tôi trở lại rực sáng như vạt nắng vàng tươi đang sưởi ấm bãi cỏ non xanh và sưởi ấm lòng tôi trong những ngày xa xứ.

     Những ngày cắp sách đến trường Thầy là một học sinh xuất sắc, rồi qua Nhật du học, về định cư ở Đức, lập nên chùa Viên Giác, tu viện Viên Đức và nhiều Chi hội khác trên khắp nước Đức này. Là một Tu sĩ Phật giáo giỏi ngoại ngữ, viết văn, dịch kinh sách, yêu văn thơ, các tác phẩm của Thầy đã lên quá con số 60. Phước báu, tài năng và trí tuệ Thầy có thừa. Thầy còn dùng thì giờ để phiên dịch biên soạn, sáng tác và in sách, in kinh giúp cho Tăng Ni, Phật tử có thêm nhiều tài liệu nghiên cứu học tập. Thầy còn phổ biến Giáo lý giải thoát và từ bi đến mọi tầng lớp phật tử nữa.

       Đối với tôi, Thầy xứng đáng là một vị Thầy đáng tôn kính. Thầy có một trí nhớ thật tuyệt vời, lịch sử, kinh điển... Thầy nhớ vanh vách. Ngoài ra, Thầy chưa hề bỏ một thời kinh Lăng Nghiêm trong các buổi công phu khi gà chưa gáy sáng. Đạo tràng nào cũng mong có sự hiện diện của Thầy, Chi hội nào gặp khó khăn, chỉ cần Thầy kêu gọi một tếng là Phật tư sẵn sàng đóng góp cúng dường. Ngoài ra Thầy còn cấp học bổng cho các Tăng Ni du học, đã có hằng trăm vị làm luận án Tiến sĩ. Để có được như vậy Thầy luôn tri ân và nhắc nhở công lao của quý bác, các cô đã gói từng cái bánh bán trong những dịp lễ và được Thầy ghi nhận trong những tác phẩm của Thầy. Ân đức của Thầy để lại cho các Tăng Ni thật lớn, Thầy và (cả Ông Chủ bút Phù Vân) còn là chất keo đã kết hợp các chị em NCBN chúng tôi đến từ muôn phương.

      Tôi còn được học Giáo lý với Thầy hằng năm trong những khóa Giáo lý Âu Châu. Điều làm tôi phấn khởi nhất là trong các khóa Giáo lý này đều có lá vàng ba sọc đỏ tung bay trong gió song song với lá cờ Phật giáo. Nơi nào có Thầy nơi đó có sự xuất hiện của lá cờ này, lập trường chống Cộng của Thầy quá rõ rệt, mấy mươi năm rồi, từ khi định cư ở Đức, Thầy chưa hề về Việt Nam dù chỉ một lần. Ngoài ra Thầy luôn luôn tham gia các cuộc biểu tình, tuyệt thực khắp mọi nơi mà không biết mỏi mệt.                                                    

     Thế rồi năm Giáp Ngọ, tôi có cơ duyên đến chùa Viên Giác trong dịp lễ Rằm tháng giêng và cũng là ngày ra mắt sách " Những Cây Bút Nữ 2 ". Vào ngày rảnh rỗi, Hòa Thượng Phương Trượng hướng dẫn cả nhóm, đứng đầu là Ông Chủ bút Phù Vân đi tham quan khắp nơi trong chùa. Ấn tượng trong tôi là khi vào kho sách. Phải nói là từng kiện hàng chất từng thùng thật cao, dày đặc. Theo lời Thầy trong đó đủ mọi loại sách từ Triết học Phật giáp, Văn học Nghệ thuật, Văn hóa Dân tộc, Kinh điển v.v... Ôi thôi kể sao cho xiết. Thầy còn chỉ một dãy thùng nói: " Đây là những thùng sách " Những Cây Bút Nữ 2" mỗi người nhớ mang về 50 cuốn cho mình. Rồi Thầy chỉ một bộ kinh hỏi ai muốn đọc Thầy sẽ tặng. Cả nhóm... chỉ cười. Thầy hiểu ý nên cũng... cười xòa!

      Cuối cùng cả nhóm và Ông Chủ Bút Phù Vân theo chân Thầy về một căn phòng. Đây là phòng dành cho Hòa Thượng Phương Trượng, cứ tưởng cả một ngôi chùa Viên Giác to lớn như vậy, chắc là Thầy sẽ có một cơ ngơi huy hoàng, sang trọng. Không ngờ đó chỉ là một căn phòng nhỏ khiêm tốn, một chiếc giường gỗ mộc mạc đơn sơ mà kích thước chỉ vừa vặn cho con người của Thầy mà thôi. Thầy đến cái tủ kê trong góc lấy ra một cuốn sổ trông cũ kỹ lắm đưa cả nhóm xem và nói: " Đây là cuốn sổ ghi tất cả danh sách những người cúng dường để xây chùa Viên Giác từ mấy chục năm về trước, tôi vẫn giữ, vẫn tri ân các vị. Quay sang tôi Thầy nói: " Hồi đó đạo hữu Nguyên Hạnh có cúng dường bao nhiêu đây tôi có ghi rõ ràng."

      Quả thật Thầy làm việc luôn có hệ thống, quy củ, lớp lang, cẩn thận, tỉ mỉ và minh bạch tạo sự tin tưởng đối với Phật tử, mọi người nơi nơi về kỹ năng làm việc cũng như con người. Phải chăng đó cũng là một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công rỡ ràng cho ngôi chùa cũng như tờ báo Viên Giác ngày nay với sự góp sức đắc lực của Ông Chủ bút Phù Vân và nhiều vị nồng cốt khác.

      Cuối cùng, con xin niệm ân Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển đã khai sáng ngôi chùa và tờ báo Viên Giác mở lối thênh thang cho " Con Đường Về Đất Phật ". Trải qua 40 năm, mốc thời gian được khắc ghi một điểm son và con đường tâm linh này sẽ trường tồn bất tận, sẽ còn nhiều mốc son dành cho thế hệ mai sau truyền thừa khắc dấu. Và con đường tâm linh này luôn mở rộng với trăm hoa đua nở sáng ngời hào quang Phật pháp, không dành cho riêng tôi, riêng ai, mà cho tất cả bước vào chung một tấm lòng hướng Phật.

 

                                                                                                    Nguyên Hạnh HTD

                                                                                                        (Tháng 01- 2019)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6919)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 912)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33890)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4721)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4669)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4624)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4587)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4913)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4626)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7577)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567