Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tinh thần lạc quan của Tiểu La Nguyễn Thành

29/01/201908:28(Xem: 9686)
Tinh thần lạc quan của Tiểu La Nguyễn Thành
Tinh thần lạc quan của
TIỂU LA NGUYỄN THÀNH
 
Châu Yến Loan

 

Tiểu La Nguyễn Thành, nhân vật kiệt xuất của đất Quảng Nam, người khai sáng Duy Tân Hội, nhà lãnh đạo xuất sắc đồng thời cũng là người tri âm, tri kỉ của chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu.

 

 

                                    

                                                mo tieu la thanh Tiểu La Nguyễn Thành

 

Nguyễn Thành trước có tên là Nguyễn Hàm, tự là Triết Phu, hiệu là Nam Thịnh, sau đổi thành Tiểu La, sinh năm Quí Hợi (1863) tại làng Thạnh Mỹ, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam (nay là ấp Quí Thạnh, xã Bình Quí, huyện Thăng Bình, Quảng Nam).

Năm Ất Dậu (1885) ông ra Huế thi Hương thì gặp vụ binh biến kinh thành Huế,  ông đã tận mắt chứng kiến những hành động dã man, tàn ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta nên rất căm hận. Vì thế ông không tiếp tục con đường khoa cử mà quyết tâm đánh đuổi quân thù. Trở về quê nhà, ông đứng ra tập hợp các thanh niên trai tráng trong vùng Thăng Bình, Quế Sơn ngày đêm luyện tập võ thuật, binh pháp đợi ngày xông pha chiến trận.

Theo lời mời của Tiến sĩ Trần văn Dư ông đã đem quân phối hợp đánh chiếm thành tỉnh Quảng Nam giành được thắng lợi lớn. Năm 1886, Nghĩa Hội Nam- Nghĩa- Định thành lập, Nguyễn Duy Hiệu mời ông tham gia và cử ông giữ chức Tán tương quân  vụ kiêm Tham biện tỉnh vụ. Ông rất có tài về quân sự và lập được nhiều chiến công khiến Nguyễn Thân phải kính nể.

Khi phong trào Cần Vương tan rã, ông về quê ẩn thân mười sáu năm tại Nam Thịnh sơn trang, sau đó cùng với Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội và trở thành nhà lãnh đạo tài ba, vị quân sư lỗi lạc của Hội.

Năm 1908 phong trào kháng thuế nổ ra ở Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh miền Trung, chính quyền Pháp thẳng tay đàn áp và truy bắt các sĩ phu yêu nước, ông bị đày ra Côn đảo và mất tại đó ngày 11 tháng 11 năm 1911.

 

 

                    

                        

                     MoTieuLa  Mộ cụ Tiểu La Nguyễn Thành tại quê nhà

 

Mặc dù xuất thân trong một gia đình quan lại triều Nguyễn, thân phụ làm đến Bố Chánh, Kinh lược sứ, nhưng Nguyễn Thành bình sinh không hay làm thơ. Suốt đời bận bịu với những lo toan cứu nước, Nguyễn Thành chỉ lưu tâm thực học, không chú ý đến việc sáng tác văn chương, song với một tài năng vượt trội, một trí tuệ uyên bác, những khi có cảm xúc ông cũng làm  đôi bài để bày tỏ tâm tư, tình cảm với bạn bè.

Mấy bài thơ của ông còn lưu lại đến nay, tuy rất ít, nhưng sáng ngời một tinh thần lạc quan, ý chí chiến đấu kiên cường của người chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỷ XX.

 

Trong Thi Tù Tùng Thoại, Huỳnh Thúc Kháng có chép bài thơ “Vịnh Con cóc” của Nguyễn Thành, bài thơ chỉ vỏn vẹn có hai câu, mười bốn chữ mà chứa đựng một nội dung tư tưởng cao sâu. Tác giả dựa vào chuyện con cóc trong kho tàng Cổ tích dân tộc để nói chuyện con người, nói về thời cuộc, về chiến lược đấu tranh :

 

                   “Thiên địa bất bình nan bế khẩu.

                     Phong vân vị chí thả mai đầu

                   ( Trời đất bất bình khó ngậm miệng

                     Gió mây chưa đến hãy ẩn mình)

 

Trời làm hạn hán, khiến cây cối khô cằn, vạn vật rẫy chết. Oán hờn đến mức khó mà ngậm miệng, cóc phải kêu, phải hỏi tội trời, bắt trời mưa xuống để cứu sống muôn loài. Từ chuyện con cóc, câu thơ đã khái quát được tình hình đen tối của xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, gieo rắc bao đau thương, tang tóc, tội ác tầy trời do chúng gây ra khiến trời đất bất bình, lòng dân oán hận. Không thể ngậm miêng, bó tay được, phải kêu lên, phải chống lại bọn chúng :

 

                    Thiên địa bất bình nan bế khẩu

 

Đó chính là chân lý. Nhưng khi gió mưa chưa đến cóc phải giấu mình trong bụi rậm để sống. Còn người ta muốn làm việc lớn phải ẩn nhẫn đợi thời, phải cẩn trọng, hoạch định chu đáo thì khởi sự mới thành công. Có lẽ bài học này Nguyễn Thành đã rút được từ thất bại cay đắng của Nghĩa hội Cần Vương Quảng Nam. Sau cái chết oanh liệt của vị thủ lĩnh Nguyễn Duy Hiệu, Nghĩa quân tan rã, Nguyễn Thành lui về quê cày ruộng ẩn thân mười sáu năm trời tại Nam Thịnh Sơn trang, bí mật tiếp xúc với đồng chí, nghiên cứu tân thư, suy gẫm đại cuộc để tìm một đường lối chống Pháp thích hợp hơn . Đây chính là giai đoạn “Phong vân vị chí thả mai đầu” của Nguyễn Thành vậy .

Đến năm 1903 khi “binh giáp đã tàng hung trung”, “lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ”, thì cũng chính là lúc Phan Bội Châu lặn lội vào Thạnh Mĩ, Thăng Bình tìm Tiểu La . Thế là Nguyễn Thành đã gặp được người đồng tâm, đồng chí để mưu bàn đại sự .Vì thế ngay từ đầu mới gặp Phan Bội Châu mà ông vui thích như bạn thân đã lâu ngày, cùng nhau kể chuyện tâm phúc thường đến suốt đêm. Những kế hoạch Nguyễn Thành ấp ủ lâu nay, nói ra Phan Bội Châu đều “lấy làm phải lắm”. Kể từ lần hội ngộ này cho đến khi bị Pháp bắt đày ra Côn đảo năm 1908, Nguyễn Thành là quân sư của Sào Nam, là linh hồn của  Duy Tân Hội, Phan Bội Châu rất kính nễ ông, bất kỳ việc lớn nhỏ nào cũng báo cáo và thỉnh ý ông .

 

Bài thơ “Vịnh con cóc” của Nguyễn Thành không những Huỳnh Thúc Kháng khen hay mà còn nói rằng Phan Bội Châu rất tâm đắc, thường ngày ngâm đi ngâm lại mãi. Ngẫm lại những việc đã làm, Phan Bội Châu tìm thấy trong đó bài học về tinh thần lạc quan, không nãn lòng trước những khó khăn cũng như thấy được ở những câu thơ tưởng chừng đơn giản đó, sách lược chiến đấu được trình bày một cách giản dị mà rất thiết thực, nên ông thường ngâm nga để tự nhắc nhở mình. Chẳng hạng như việc tổ chức Sĩ tử Cần Vương đội giúp vua Hàm Nghi năm 1885, mỗi khi nhớ lại Phan Bội Châu không khỏi tự cười mình. Một đội quân qui tụ  trên sáu mươi người mà vũ khí, lương thực thiếu thốn, tổ chức chưa hoàn chỉnh thì làm sao không tan rã khi quân Pháp kéo đến. May mà Phan Bội Châu kịp thiêu huỷ danh sách, vụ Thí sinh quân không bị bại lộ và không gây hậu quả lớn lao, nhưng đó là một bài học Phan Bội Châu  ghi nhớ suốt đời. Từ đó ông luôn luôn tâm niệm rằng :

“ Hễ muốn làm anh hùng, tất phải tiềm dưỡng cho thiệt lâu, muốn gánh việc lớn, tất phải chứa mưu cho thiệt giàu. Hễ những tuồng táo tiến khinh động, qua sông bằng mình truồng, quyết không làm thành việc gì” (Tự phán tr 25). Thật đúng là “Phong vân vị chí thả mai đầu” như Nguyễn Thành đã nói.

 

Trong quốc nạn của dân tộc năm 1908, Nguyễn Thành cũng chịu chung số phận bị bắt bớ, giam cầm, bị kết án khổ sai đày đi Côn đảo với các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Lê Bá Trinh, Trương Bá Huy, Dương Phụ Thạch, Hương Cảnh và Hương Quần. Ra đảo tròn ba năm (15/8/1908- 15/8/1911 ) những người bạn tù nhớ “cái ngày ấy” cùng nhau làm thơ kỉ niệm lấy bảy chữ “Tích niên kim nhật đáo Côn lôn” (Ngày này năm ngoái đến Côn lôn ) làm câu mở đầu chung. Trong sinh hoạt đó, tuy sức khoẻ đã suy yếu, Nguyễn Thành cũng sáng tác một bài thơ thất ngôn góp cùng các bạn:

 

Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn,                   

                     Thu vũ thu phong ám đoạn hồn.

                     Tợ ngã suy đồi tâm vị lão,

                     Thị thùy khẳng khái chí du tồn.

  Phong vân biến huyển chân kham sá,

                     Thiên địa tuần hoàn bất đãi ngôn.

                     Mỗi ngộ tao đàn cao cải sí,

                     Tự tâm kích cổ quá lôi môn.”  

 

Bản dịch của Nguyễn Thiếu Dũng:             

 

  Ngày này năm ngoái đến Côn Lôn

  Mưa gió trời thu ảm đạm hồn

  Thân dẫu suy mòn tâm vẫn trẻ

  Nào ai khẳng khái chí đang còn

  Gió mây biến đổi bao hình thái

  Trời đất vần xoay khó tính khôn

  Dựng lại đàn thơ, dương ngọn đuốc

  Lòng son hứng dậy trống khua dồn

         

Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh gió mưa buồn bã nơi Côn đảo :

 

Thu vũ thu phong ám đoạn hồn

 

để rồi từ trên nền u tối đó mà sáng lên cái “tâm vị lão” của người chí sĩ cách mạng .

Ba năm ra đảo, biết bao tai hoạ đã ập đến với Nguyễn Thành chẳng khác nào những trận mưa gió mùa thu làm ảm đạm lòng người : vợ mất, con gái qua đời nhất là cái tin Nhật Bản cấu kết với thực dân Pháp trục xuất các du học sinh và cả Phan Bội Châu ra khỏi đất Nhật khiến ông vô cùng uất ức. Khổ đau chồng chất vì việc nước, việc nhà, làm ông mang bệnh thổ huyết, sức khoẻ suy sụp như ông đã nói trong câu thơ thứ 3 :

 

Tợ ngã suy đồi tâm vị lão

 

Câu thơ ngắt nhịp 4/3 chia ra 2 vế, vế đầu 4 chữ nêu lên thực tế đau đớn là cơ thể không thoát khỏi quy luật sinh thành, hủy diệt của vũ trụ, vế sau 3 chữ khẳng định một vấn đề quan trọng hơn, làm nổi bật ý chí bất khuất , kiên cường, tinh thần lạc quan của người chí sĩ đó là cái “Tâm vẫn trẻ” .

Trong hoàn cảnh lao tù, vũ khí hữu hiệu nhất để chiến thắng kẻ địch, chiến thắng gian khổ và chiến thắng bản thân chính là sức mạnh tinh thần. Nguyễn Thành khẳng định “Tâm vị lão” là khẳng định tấm lòng yêu nước vẫn chứa chan, nhiệt tình cứu nước vẫn tuôn trào trong huyết quản, ý chí chiến đấu chẳng lung lay. Khẳng định cái “Tâm vị lão” là chống lại qui luật nghiệt ngã của thời gian, của vật chất, giữ vững sức mạnh tinh thần để tự động viên mình và động viên đồng bạn, đồng chí :

 

Tợ ngã suy đồi tâm vị lão ,

Thị thùy khẳng khái chí du tồn

 

Nguyễn Thành luôn tin tưởng : “ Phong vân biến huyển, Thiên địa tuần hoàn” ( gió mây biến đổi, trời đất tuần hoàn ), đó là qui luật của tạo hoá , lẽ nào non sông đất nước ta chẳng có lúc đổi thay !

Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh tràn đầy lạc quan tin tưởng của người chí sĩ cách mạng trong chốn lao tù :

 

Mỗi ngộ tao đàn cao cải sí,

Tự tâm kích cổ quá lôi môn.”                

 

Bệnh của Nguyễn Thành ngày càng nặng, biết mình không qua khỏi, ông gởi thư giả từ chiến hữu, với niềm tin vào sự thắng lợi của phong trào yêu nước để động viên anh em giữ vững ý chí đấu tranh, bền tâm chờ đợi vận hội mới:

 

Thời cuộc nhất chuyển hảo cơ. Đông Á phong vân kim hậu chính kỳ giả, chư huynh đệ nỗ lực chi ngữ hựu phụ”

 

Cụ Huỳnh Thúc Kháng dịch:

(Thời cuộc xoay vần, cơ hội tốt sẽ đến, giông mây Đông Á sau này còn nhiều cuộc biến đổi, anh em gắng lên!)

 

và làm bài thơ tuyệt mệnh, lời lẽ thật cảm động:

 

Nhất sự vô thành mấn dĩ ban

                   Thử sanh hà diện kiến giang san

                   Bổ thiên vô lực đàm thiên dị

                   Tế thế phi tài tỵ thế nan

Thời cuộc bất kinh vân biến huyển

Nhân tình chỉ khủng thủy ba lan

Vô cùng thiên địa khai song nhãn

Tái thập niên lai thí nhất quan

 

Bản dịch của Nguyễn Thiếu Dũng:

 

Việc lớn không thành tóc trắng bông ,

 Mặt nào còn dám ngó non sông

                     Vá trời không sức, bàn suông - dễ

           Cứu thế non tài, lẫn tránh - không

           Thời cuộc chẳng màng mây sớm ảo

                     Nhân tình chỉ sợ sóng chiều giông

                     Đất trời vô tận giương to mắt

                    Sắp tới mười năm thử cứ trông

                                     

Căn bệnh ngặt nghèo không cho ông được tiếp tục chiến đấu, ông đau đớn tự trách mình :

 

                  “ Nhất sự vô thành mấn dĩ ban

                   Thử sanh hà diện kiến giang san

           

Lời thơ ngậm ngùi phát ra từ tâm trạng ray rứt của một người có chí, có tài đang ôm ấp một hoài bão lớn lao mà đành bất lực. Suốt cuộc đời dấn thân vào con đường cứu nước từ những năm bôn ba chiến đấu trong hàng ngũ Nghĩa quân, tuy lập được nhiều chiến công khiến Nguyễn Thân phải khâm phục tài quân sự xuất sắc của ông “Nam Ngãi dụng binh duy Hàm nhất nhơn” (Ở Quảng Nam, Quảng Ngãi về tài quân sự chỉ Nguyễn Hàm (tức Nguyễn Thành) là số một), nhưng chỉ được có mấy năm thì Nghĩa hội tan rã, Nguyễn Duy Hiệu- thủ lĩnh của Nghĩa quân hy sinh, bản thân Nguyễn Thành cũng không thoát khỏi giam cầm. Nguyễn Thân tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc ông ra làm quan với Nam triều nhưng ông đã lấy cớ phụng dưỡng mẹ già mà khéo léo từ chối.

Rồi mười sáu năm trời quên ăn, bỏ ngủ, nung nấu tâm can để tìm ra những kế sách diệt thù, mong có ngày đem ra thi thố thì giờ đây đành chịu bó tay. Tình  hình cách mạng không tiến triển tốt đẹp như Nguyễn Thành mong muốn, những người yêu nước trong Duy Tân Hội và phong trào Duy Tân bị Pháp bắt bớ, giam cầm đày đi Côn Lôn, Lao Bảo, còn Nhật Bản, nơi ông đặt niềm tin cứu nước, giờ đã bắt tay với Pháp, trở mặt đuổi người, chút hi vọng gởi gắm nơi những thanh niên xuất dương cầu học đã tan thành mây khói, đến tính mệnh cũng không giữ nổi, làm sao mà ông không buồn, không trách được. Những ngày cuối cùng ông đau đớn nhận ra sự bất lực của mình trước thời cuộc :

 

                     “ Bổ thiên vô lực đàm thiên dị

                       Tế thế phi tài tỵ thế nan”      

 

Dẫu biết mình “ lực bất tòng tâm”, nhưng trốn đời để quên việc nước đối với Nguyễn Thành quả là không dễ “ tỵ thế nan”. Biết không thành mà vẫn cưu mang, gánh vác, vẫn gắn mình với nước, với dân. Bi kịch tâm hồn của Nguyễn Thành chính là ở đó .

 

Tâm trạng của Nguyễn Thành lúc này cũng gần như tâm trạng của Đặng Dung  thời hậu Trần :

 

                    "Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

                    Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma "

                   (Thù nước chưa xong đầu đã bạc

                    Gươm mài vầng nguyệt trải bao ngày )

 

Tuy sống cách nhau gần 500 năm nhưng hai ông đều là những trí thức có tài, có tấm lòng tận trung báo quốc mà chẳng gặp thời cơ. Nỗi đau của các ông là nỗi đau của một trái tim lớn, một hoài bão lớn. Đặng Dung không thực hiện được chí nguyện cứu nước của mình, khi bị giặc Minh bắt đã mượn dòng sông để bảo toàn khí phách anh hùng, còn Nguyễn Thành trong cơn đau giày xéo thể xác và tâm can, vẫn sáng suốt khẳng định một niềm tin, một ý chí chiến đấu không lay chuyển :

 

                    “Thời cuộc bất kinh vân biến huyển

                    Nhân tình chỉ khủng thuỷ ba lan” .

       

Lời cuối cùng của Nguyễn Thành trước lúc từ biệt bạn bè, đồng chí vẫn là lời khẳng định niềm tin sắt đá vào tiền đồ của đất nước, của dân tộc :

 

                    “Vô cùng thiên địa khai song nhãn ,

                    Tái thập niên lai thí nhất quan

 

Nguyễn Thành ra đi chỉ để lại có mấy bài thơ, nhưng bài nào cũng  xuất phát từ những trải nghiệm xương máu trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù cướp nước, từ trái tim nồng nàn yêu thương dân tộc, từ tinh thần lạc quan, nên có tác dụng động viên, cỗ vũ, mang lại niềm tin sáng ngời cho những người kế tục sự nghiệp cứu nước vô cùng gian khổ nhưng đầy vinh quang .

         

         

                                                                             CHÂU YẾN LOAN

.                                                                 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/01/2018(Xem: 11772)
Viên dung hạnh nguyện Bồ Đề, Thong dong giữa cõi, lối về phương duyên. Thác duyên giữa chốn lam thiền, Kim Liên hầu Phật, tịch chiên kinh huyền.
06/01/2018(Xem: 9427)
Chúng tôi có duyên được gặp ông Lý Đại Nguyên từ những năm cuối thập niên 1950, khi đến tham dự những buổi nói chuyện về những vấn đề văn hóa, chính trị và văn nghệ vào những ngày chủ nhật tại Đàm Trường Viễn Kiến (nhà ông Nguyễn Đức Quỳnh trong hẻm cạnh chùa Giác Minh của thượng tọa Thích Tâm Châu, đường Phan Thanh Giản). Khi nhập vào Đàm Trường này, chúng tôi còn là học sinh đệ tứ, đệ tam trường Chu Văn An, nhưng được nghe nhiều nhà văn, nhà báo thuyết trình đủ thứ đề tài , trong đó tôi còn nhớ là thường gặp luật sư Nghiêm Xuân Hồng, nhà văn Mặc Đỗ, nhà báo Hồ Nam, nhạc sĩ Phạm Duy, mấy nhà văn nhóm Sáng Tạo, và mấy người trẻ lớp tuổi tôi như Phan Lạc Giang Đông, Phạm Thiên Thư, Lê Triều Quang... Nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh, chủ nhà và người chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến, với bộ bà ba nâu, trán cao, dáng thanh thoát thường góp nhiều ý kiến trong những buổi nói chuyện, và người thứ nhì là Lý Đại Nguyên, dáng thư sinh, mặc bộ bà ba trắng thường tổng kết những đề tài thảo luận. Tro
29/12/2017(Xem: 23412)
Giáo Sư Trần Quang Thuận, Pháp danh: Tâm Đức Tự: Trí Không Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1930 tại Huế. Đệ tử của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Du học và tốt nghiệp Tiến Sĩ tại Anh. Cựu Bộ Trưởng Bộ Xã Hội, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cựu Nghị sĩ Thượng Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa. Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Hội Ái Hữu Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Kế Hoạch GHPGVNTNHN-HK. Giám đốc Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, California, Hoa Kỳ. Đã cộng tác với nhiều báo chí Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.
19/12/2017(Xem: 7040)
Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội đã khẳng định: “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân. Đặc biệt lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm đến nơi non cao Yên Tử để học Phật tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.”
17/12/2017(Xem: 70523)
Bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, chiếm tới ba tập khổ lớn trong Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu, mỗi tập trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4 triệu 500.000 chữ (Hán); thường được gọi là Đại Bát Nhã, mang số hiệu 220. Khoảng giữa năm 1973, theo quyết định của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được thành lập với Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng thư ký. Trong kỳ họp tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm thảo luận phương thức, nội dung và chương trình làm việc, Hòa Thượng Thích Trí Nghiệm được Hội đồng phân công phiên dịch bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. Thực ra, Ngài đã tự khởi dịch bộ kinh này từ năm 1972 và khi được phân công, Ngài đã dịch được gần 100 quyển. Đây là bộ kinh lớn nhất trong Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản biệt
15/12/2017(Xem: 88364)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 138751)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
15/12/2017(Xem: 10312)
Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, môn đồ pháp quyến vô cùng kính tiết báo tin: Hòa thượng Thích Ngộ Trí. Chứng minh BTS GHPGVN thị xã Ninh Hòa. Trụ trì chùa Trường Thọ. Do niên cao lạp trưởng, Hòa thượng đã thuận thế vô thường viên tịch vào lúc 14 giờ ngày 12/12/2017 (25/10 Đinh Dậu) tại chùa Trường Thọ, tổ dân phố 10, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Trụ thế: 75 năm, Hạ lạp: 47 năm.
27/11/2017(Xem: 23319)
Do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã viên tịch vào lúc vào lúc 04h00 ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017) tại Quảng Hương Già Lam, 498/11 Lê Quang Định, Phường 1, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, trụ thế 86 Xuân Thu, 62 Hạ Lạp. Lễ nhập Kim Quan được cử hành vào lúc 19h00, ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu (nhằm ngày 27/11/2017). Kim Quan được tôn trí tại Quảng Hương Già Lam, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
26/11/2017(Xem: 6636)
Chấn hưng Phật giáo hay Công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam là một phong trào vận động cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát triển hoằng bá Phật giáo tại Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỉ 20. Công cuộc này đã làm thay đổi rất nhiều về nội dung và hình thức hoạt động của Phật giáo tại Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]