Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Cảnh (1937 – 2018)

12/10/201817:43(Xem: 4733)
Tiểu Sử Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Cảnh (1937 – 2018)


HT Thich Minh Canh_1937_2018

Tiểu Sử

Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Cảnh

(1937 – 2018)

***

Phụng vì Huệ Quang đường thượng

tự Lâm Tế Chánh Tông tứ thập thế thượng Minh hạ Cảnh húy Chơn Đài
Nguyễn công Hòa thượng tân viên tịch
 


  1. Thân thế

Hòa thượng đạo hiệu Thích Minh Cảnh, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40. Hòa thượng thế danh Nguyễn Hữu Danh, sinh ngày 12 tháng 11 năm Đinh Sửu (1937) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Hòa thượng là người con út, là con thứ 9 (miền Nam gọi là thứ 10) trong gia đình có 9 anh chị em, với bốn người anh chị xuất gia tu học.

  1. Xuất gia tu học và hành đạo

Vốn sanh trong gia đình trung lưu phúc hậu, nhiều đời kính tin Tam bảo, sâu trồng ruộng phước Tăng già, đặc biệt là có bốn anh chị xuất gia nơi cửa Phật, vì vậy Hòa thượng đã bén duyên với cửa Phật khi tuổi còn rất nhỏ.

Năm 1945, Hòa thượng được hòa thượng Huệ Hưng dẫn đến chùa Long An ở Sa Đéc thọ học với hòa thượng Hành Trụ, được ban pháp danh Minh Cảnh.

Năm 1947, Hòa thượng thọ giới Sa di tại chùa Kim Huê (Sa Đéc) với hòa thượng Chánh Quả.

Đầu năm 1948, Hòa thượng nhập học tại trường Liên Hải Phật học đường đặt tại chùa Vạn Phước, Bình Trị Đông (nay là quận Tân Bình). Tại ngôi trường Phật học này, Hòa thượng được cố hòa thượng Thích Trí Tịnh chính thức nhận làm đệ tử và học ở đây cho đến năm 1950.

Năm 1951, Hòa thượng theo hầu hòa thượng Thích Trí Tịnh tại Sơn Linh cổ tự (Vũng Tàu).

Năm 1953-1954, Hòa thượng tu học tại Phật học đường Nam Việt đặt tại chùa Ấn Quang, quận 10, Sài Gòn. Nơi đây, Hòa thượng được gần gũi và học tập với hòa thượng Thích Nhất Hạnh.

Năm 1954-1959, sau khi khóa học tại Ấn Quang kết thúc, Hòa thượng cùng các huynh đệ đồng môn tiếp tục con đường thế học còn dang dở do thời cuộc.

Mùa hè năm 1960, Hòa thượng khăn gói lên tàu ra đất Kinh kỳ, ở tại chùa Từ Hiếu để đi học trường Quốc Học và học chữ Hán với Ôn Quy Thiện.

Năm 1960-1961, từ Huế trở về, Hòa thượng tu học tại chùa Tập Thành với thầy Cả, thân mẫu nay đã xuất gia và những anh chị em xuất gia trong gia đình.

Năm 1961-1965, Hòa thượng trở lại con đường học thế học tại trường Chi Lăng trên đường Nguyễn Tri Phương gần ngã sáu, trường Phan Sào Nam trên đường Trần Quý Cáp gần chợ Đũi. Sau đó, Hòa thượng học tiếp cho đến tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa.

Năm 1965-1968, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Hòa thượng được cử xuống dạy học tại trường Thoại Ngọc Hầu ở Long Xuyên.

Năm 1968-1975, Hòa thượng dạy học và làm việc tại Đại học Vạn Hạnh (Lê Văn Sỹ).

Năm 1969, Hòa thượng thọ giới Tì-kheo tại chùa Huệ Nghiêm, do hòa thượng Hải Tràng làm Hòa thượng đàn đầu, hòa thượng Trí Tịnh làm Tuyên luật sư, hòa thượng Hành Trụ làm Yết-ma a-xà-lê, hòa thượng Huệ Hưng làm Giáo thọ a-xà-lê.

Năm 1970, Hòa thượng tu học tại Tu viện Huệ Quang cho đến nay.

Năm 1971-1974, tuy ở tại Tu viện Huệ Quang, nhưng Hòa thượng làm hiệu trưởng trường Bồ Đề Long Khánh.

Năm 1980, được sự ủy thác của cố hòa thượng Huệ Hưng, Hòa thượng kế thế trụ trì Tu viện Huệ Quang cho đến ngày nay.

Năm 1984-1988 và 2002-2006, Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo quận Tân Bình, sáng lập lớp Sơ Cấp Phật học quận Tân Bình.

Năm 1984-1991, Hòa thượng làm giáo thọ Trường Cao cấp Phật học khóa I và II.

Năm 1991, Hòa thượng khai giảng lớp Hán Nôm tại trường Đại học Doanh Thương Trí Dũng.

Năm 1992, Hòa thượng đã khai giảng lớp Phiên dịch Hán Nôm Huệ Quang khóa I tại chính ngôi chùa mình đang trụ trì. Ba năm sau, việc giáo dục lại gián đoạn, Hòa thượng cùng các tăng ni khóa này đã bắt tay vào phiên dịch bộ Từ điển Phật học Huệ Quang, kéo dài suốt 10 năm. Cũng trong thời gian này, Hòa thượng phiên dịch và cho đăng trên tuần báo Giác Ngộ bộ truyện Tế Điên hòa thượng với bút hiệu Đồ Khùng. Sau này được in lại thành sách gồm ba tập.

Đến năm 1999, nhân duyên hội đủ, Hòa thượng tiếp tục khai giảng lớp Phiên dịch Hán Nôm Huệ Quang và duy trì đến nay đã được 15 khóa học.

Năm 2007, Hòa thượng được đề cử làm Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, thành lập Ban Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang (năm 2012 đổi thành Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang), trực thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đặt tại Tu viện Huệ Quang với hơn 20 thành viên hoạt động cho đến hôm nay với nhiều tác phẩm được phiên dịch đã được in như: Phật Tổ đạo ảnh, kinh Xuất diệu, Giác hổ tập, kinh Phật thuyết chúng hứa ma-ha-đế, kinh Pháp cú thí dụ, kinh Đại thừa lý thú lục bát-nhã ba-la-mật, kinh Đại Tát-già-ni-kiền tử sở thuyếtTruyện nhân duyên phú pháp tạngChặng đường tham họcLời trong cõi mộng, Tham cứu Tịnh Độ…, và còn nhiều tác phẩm đang biên tập và đang dịch. Những thành tựu này đã phần nào đóng góp vào sự nghiệp giáo dục tăng tài cũng như hoằng pháp mà Hòa thượng luôn thao thức.

Năm 2012-2017, Hòa thượng giữ chức vụ Phó Viện trưởng kiêm Giám đốc Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang trực thuộc Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Phiên dịch và Ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam.

Năm 2002-2012 Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN quận Tân Bình và sau đó là Cố vấn chứng minh Ban Trị sự GHPGVN quận Tân Phú cho đến ngày viên tịch.

Năm 2017, Hòa thượng là thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.

Trong những năm sau này, Hòa thượng từng làm Yết-ma các Đại giới đàn tại chùa Phổ Quang – Tp. HCM, Đại Tòng Lâm – Vũng Tàu. Đặc biệt là chứng minh nhiều giới đàn do Tăng thân Làng Mai tổ chức tại Pháp, Thái Lan.

  1. Viên tịch

Mùa an cư năm Mậu Tuất, bệnh của Hòa thượng trở nặng. Tuy là hết lòng chạy chữa, nhưng nghiệp dĩ vô thường vẫn ráo riết không buông. Khuya ngày mồng 03 tháng 9 năm Mậu Tuất, Hòa thượng hai lần báo với thị giả: “Tôi sắp ra đi!”. Lúc 13 giờ 35 phút, khi hàng đệ tử quỳ quanh hộ niệm, Hòa thượng chắp tay chào mọi người rồi trút hơi thở cuối cùng, trên môi thoảng một nụ cười hoan hỷ, nhẹ nhàng như đang đi vào giấc ngủ, thượng thọ 82 tuổi, 49 hạ lạp.

Người đã ra đi, nắng sớm Huệ Quang còn rưng nụ cười đôn hậu, mưa chiều lớp dịch còn ấm hơi thở an nhiên. Những hoài bão vẫn còn, bao công trình chưa trọn. Hòa thượng thường tâm sự với học trò: “Tôi tài hèn đức mọn”, hay “Tôi tài cũng không mà đức cũng không, nên mọi thứ tùy duyên, cái gì cũng có nhân quả của nó…”. Cho đến những ngày tứ đại bất an, tay Hòa thượng vẫn chưa buông bản dịch.

Kính nguyện Giác linh Hòa thượng cao đăng Phật quốc.

Nam mô Tự Lâm Tế Chánh Tông tứ thập thế thượng Minh hạ Cảnh húy Chơn Đài Nguyễn công Hòa thượng tân viên tịch.

Đệ tử Môn Đồ Pháp Quyến Tu Viện Huệ Quang

Kính soạn



Le nhap kim quan-ht thich minh canh-4-8

Kính mời xem hình ảnh Lễ Nhập Kim Quan

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2011(Xem: 4116)
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sau khi khoác tăng bào ở tuổi 40 đã chu du khắp nơi để thuyết pháp, giảng kinh, khuyên dân chúng giữ gìn mười điều lành, và từng trở về kinh đô Thăng Long tổ chức lễ thụ Bồ tát giới cho vua Trần Anh Tông và quan lại triều đình.
09/08/2011(Xem: 4467)
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
08/08/2011(Xem: 3939)
Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Phước Huệ (1875 - 1963) - chùa Hải Đức
08/08/2011(Xem: 4455)
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
07/08/2011(Xem: 11589)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
04/08/2011(Xem: 4424)
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
30/07/2011(Xem: 6080)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
28/07/2011(Xem: 4924)
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành: -Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi. -Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật. -Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo. -Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông. -Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang. Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm -Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương. -Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
15/07/2011(Xem: 5859)
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
24/06/2011(Xem: 4887)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567