Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Một cái chết, sau 40 năm vẫn chưa sáng tỏ

10/10/201820:18(Xem: 7910)
Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Một cái chết, sau 40 năm vẫn chưa sáng tỏ

htthienminh
Hòa Thượng Thích Thiện Minh

Một cái chết, sau 40 năm vẫn chưa sáng tỏ
 

- Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết

 

 

Một cái chết,

Sau 40 năm vẫn chưa sáng tỏ

Biết bao văn thư, đòi hỏi chế độ

Biết bao văn kiện, yêu cầu nhà cầm quyền

Cả Đảng, cả nhà nước, miệng ngậm kín như nêm

Không dám trả lời một câu thật cụ thể

Một cái chết

Sau 40 năm vẫn đen ngòm như bóng tối

Bóng tối của vô minh, sắt máu, bạo tàn

Bóng tối của ngục tù, rừng rú, dã man

Của khỉ, vượn, đười ươi đội lốt con người làm đau cả nước

Ngài, chỉ mặc áo nâu sồng, đầu trần, chân đất

Ngài, chỉ chiếc gậy trên tay, chống đỡ tấm thân

Chế độ trước, bị tù ngục phong trần

Chế độ sau, bị đập đầu bức tử

Vì Thầy là bộ óc cầm cân nẩy mực

Vì Thầy là bộ não tuyệt thế vô song

Ai nói tiếng tổ quốc tồn vong

Ai nói tiếng dân tộc anh hùng

Dù cây gậy hay củ cà rốt

Dù tư bản đỏ hay tư bản đen

Trời đất rộng nhưng không có chỗ đứng

Trước 1975, vì thể chế tự do, nên Ngài còn sống

Sau 1975, vì thể chế cộng sản, nên Ngài tiêu ma

Cái chữ lịch sử, văn hiến, quốc gia

Không thể nói với phường phi nhân vong bản

Họ chỉ nói, súng với đạn

Họ chỉ nói, ngục với tù

Cái ô nhục, nghĩa gì với thiên thu

Cái ô danh, sá chi tranh vân cẩu

« Giải phóng Miền Nam », chỉ là danh từ trống rỗng

« Chống Thực, phản Đế », chỉ là mị nước mị dân

Họ đã là Cộng Sản từ thập niên 1930

Mà cứ chính trị sa lông, mê ngủ, lựa lần

Hết Pháp, tới Nhật, rồi 9 năm kháng chiến, chui đầu vô rọ

Hiệp định Genève năm 1954

Một nửa đất nước Miền Bắc, tận cùng khốn khổ

Hai mươi mốt năm, một nửa Miền Nam, Quốc-Cộng mù mờ

Đấu tranh là chân chính, đường đường, nhưng như đi trong mộng trong mơ

Đến 30 tháng 4 năm 1975

Mắt không mở vẫn phơi bày sáng quắc

Vì Phật Giáo và Dân Tộc, nên Ngài phải chết

Vì Đất Nước và Quê Hương, nên Ngài cam phần

Dù bức tử tại Chí Hòa, rồi ép nhẹm ra Hàm Tân

Hay bất cứ nơi đâu, chỉ là địa điểm

Bởi, Ngài là một trong những bậc cột trụ

Bởi, Ngài là một trong những bậc cương thường

Thượng sách là triệt tiêu

Không có chuyện suy lường

Hơn nữa, đối với Cộng Sản, đâu có hạ hồi phân giải

Một cái chết, sau ba mươi năm

Thịt xương Thầy, đã trả về tứ đại

Một cái chết, sau ba mươi năm

Thân xác Thầy, đã cát bụi mù bay

Nhưng Trường Sơn, đỉnh núi tỏa cay cay

Nhưng Biển Đông, sóng triều loang muối mặn

Đạo Pháp và Dân Tộc, tràn đầy vị đắng

Đất Nước và Quê Hương, chìm ngập niềm đau

Mẹ Âu Cơ, tóc phơi bạc trắng hoa cau

Cha Long Quân, cau mặt đền thờ Tổ Quốc

Ba mươi năm, mà còn viết về Ngài

Bởi non nước nầy vẫn chưa hết khổ

Ba mươi năm, mà còn thương tiếc Ngài

Bởi, phải chi Ngài sống, để thấm nỗi niềm chung

Quê hương mình, chưa ra khỏi đường cùng

Dân tộc mình, bình minh chưa ló dạng.

 

 

Thích Nhật Tân vọng bái,

 

thnhattan@yahoo.com.au 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 9063)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14577)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6746)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5394)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4895)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5305)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6120)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5963)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9406)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5020)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567