Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hãy Bình Lặng Như Dòng Sông

12/07/201816:47(Xem: 13047)
Hãy Bình Lặng Như Dòng Sông

dongsong_3

Hãy Bình Lặng Như Dòng Sông


Tĩnh lặng an lạc là biểu hiện nội tâm tu tập sâu xa, từ bỏ là cả một quá trình quán niệm giúp cho con người vượt qua được những điều bất như ý đi ngang qua cuộc đời, đây cũng là một phương pháp để phát triển về mặt tâm linh. Sống thiếu niềm tin, tánh nhẫn nại và tâm khiêm hạ cũng như sự tu tập, con người khó có thể hòa đồng cảm thông và khó giữ được mối quan hệ tốt đẹp lâu dài với những người chung quanh mình. Người không học hạnh xả ly sẽ hủy hoại tâm an lạc của chính mình và không an ổn cho tha nhân.

Đức Thế Tôn có dạy:

"Cái gì không phải của các ông, này các Tỳ Kheo hãy từ bỏ nó sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc cho các ông".

Một lời nhắn nhủ hết sức là minh triết của Đức Thế Tôn, với một mục đích khai sáng nhân bản bằng trí tuệ, giải phóng mọi hệ lụy, mà thói quen con người luôn bị trói buộc kềm hãm trong vòng luẩn quẩn của tri thức, của ý niệm "ngã" và "ngã sở". Có nhận thức được mới buông bỏ để đạt đến sự bình lặng của nội tâm, sáng ngời như những viên kim cương óng ánh trên mặt nước giữa trưa hè êm ả, không gợn sóng của dòng sông

Trong Tương Ưng Bộ Kinh Đức Phật có nói.

- "Này các Tỳ Kheo, các ông nghĩ thế nào, Sắc là thường hay vô thường?

- Bạch Thế Tôn! Vô thường

- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

- Bạch Thế Tôn! Khổ

- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là "cái này của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"

- Bạch Thế Tôn! Không.

- Chư Tỳ Kheo, Thọ ... Tưởng ... Hành ... Thức là thường hay vô thường?

- Bạch Đức Thế Tôn! Là vô thường

- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

- Bạch Thế Tôn! Là khổ

- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là "cái này là của tôi ... tự ngã của tôi".

- Bạch Thế Tôn! Không

- Do vậy, này các Tỳ Kheo, cái gì không phải của các ông, các ông hãy từ bỏ. Các ông từ bỏ, sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, cái gì không phải của các ông? Chư Tỳ Kheo, Sắc không phải của các ông, hãy từ bỏ sắc. Các ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, Thọ không phải là của các ông, hãy từ bỏ thọ. Các ông từ bỏ thọ sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, Tưởng không phải là của các ông, hãy từ bỏ tưởng. Các ông từ bỏ tưởng sẽ đem lại hạnh phúc lâu dài, an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, Các hành không phải là của các ông, hãy từ bỏ các hành Các ông từ bỏ các hành sẽ đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông.

* Chư Tỳ Kheo, Thức không phải là của các ông, hãy từ bỏ thức. Các ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông. Chư Tỳ Kheo các ông nghĩ thế nào? Trong rừng Telavana này nếu có người thâu lượm cỏ, cây, nhành, lá rồi đốt hay làm với chúng tùy theo ý muốn, các ông nghĩ chăng? Người ấy thâu lượm chúng ta, đốt chúng ta hay làm với chúng ta tùy theo ý muốn?

- Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn vì nó không phải tự ngã hay không phải sở thuộc của ngã.

- Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, cái gì không phải của các ông, các ông hãy từ bỏ. Các ông từ bỏ sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông. Chư Tỳ Kheo và cái gì không phải là của các ông? Chư Tỳ Kheo, sắc không phải của các ông, hãy từ bỏ sắc. Các ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông. Chư Tỳ Kheo thọ ... Chư Tỳ Kheo tưởng ... Chư Tỳ Kheo hành ... Chư Tỳ Kheo thức ... Không phải của các ông. Các ông từ bỏ sẽ mang lại hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ông. Cái gì không phải của các ông, hãy từ bỏ nó, sẽ đưa lại hạnh phúc an lạc cho các ông?

Buông bỏ mọi ý niệm liên hệ đến tự ngã hay thực hành nếp sống vô ngã khi tiếp xúc với Trần cảnh là một việc làm thánh thiện, một lối sống không còn phiền muộn khổ đau, mà Đức Thế Tôn đã trải nghiệm qua trong suốt hành trình của Ngài, không dễ gì mấy ai làm được, đây là điểm then chốt của Phật dạy cho người tu là phải từ bỏ để đạt đến sự an tĩnh của nội tâm, tinh cần tỉnh giác để không rơi vào ý niệm "cái tôi" và "của tôi". Không mê lầm, không chấp trước những gì không phải là của mình.

Chúng ta sanh ra và lớn lên rồi tất bật với bao nhiêu cuộc sống não phiền: Nào tiền tài, danh vọng, địa vị, vật chất v. v ... nếu không quân bình về tâm lý, chúng ta dễ bị kích động, dù là một lời nói không đáng kể, một sự phê bình vu vơ, chọc tức, hoặc từ việc làm hay một ước mơ không thành tựu, hay một vài sự kiện nho nhỏ, cũng dễ tác động tâm thức mình, những mâu thuẫn, chán nản, bực tức, oán giận, tuyệt vọng không đâu, dần dần tạo nên những phản ứng gây hại không mấy tốt đẹp cho mình và chung quanh mình.

Chúng ta bận rộn suốt ngày, mà cái đem lại hạnh phúc an lạc cho mình thì ít ai quan tâm đến? Không có sự bình lặng của nội tâm làm sao chúng ta thấy được cái gì giúp ta đạt đến chân thiện mỹ của cuộc sống để đem lại hạnh phúc? Vì sao ta phải sống trong âu lo sợ hãi? Điều gì khiến chúng ta bực bội, bất an, phải chăng do mê lầm cố hữu chấp trước, nắm bắt lạc thọ mà khổ hay chăng? Có bao giờ mình tự hỏi: Tại sao ta phải chạy theo những ảo tưởng, những thứ không cần thiết để suốt cả lộ trình sanh tử phải đeo mang khổ lụy? Tại sao chúng ta không tìm lại sự bình an của tâm hồn? Tại sao không biết dừng để thấy nẻo về của ý sanh diệt hay thường hằng, lạc thú hay hạnh phúc miên trường? v. v ... Biết bao câu hỏi tại sao và tại sao? Rồi cũng thế nếu chúng ta không cho an lạc tâm hồn là quan trọng thì không giải quyết được gì.

Đức Thế Tôn dạy: Cái gì không phải của mình thì hãy từ bỏ nó để được an lạc hạnh phúc lâu dài? Điều quan trọng Ngài nhắn nhủ là ngay bây giờ chúng ta phải học cách gieo hạt giống tốt thánh thiện vào mảnh đất tâm Phật của ta.

- Sống tinh cần tỉnh giác chánh niệm ta biết rõ buồn vui chỉ là một cảm xúc tạm thời, thuận ý thì vui, nghịch ý thì buồn, ta chuyển hướng tâm ta vào đối tượng hoan hỷ, lạc quan thay vì để tham sân si chế ngự, quán niệm tư duy sẽ giải tỏa mọi hệ lụy và bình lặng nội tâm.

- Ta nhận thức sự an bình của nội tâm có được khi ta biết lánh xa những nguyên nhân gây hại, những tác động phiền não cho tâm, phải thân cận thiện hữu, học hỏi điều hay, tinh cần tỉnh thức, thì sự an lạc theo đó mà phát triển.

- Ta buông bỏ mọi cảm xúc của tự ngã vì ta biết được sự sanh diệt của năm uẩn đưa đến sự phiền muộn khổ đau, ta hoán chuyển không đam mê, không tìm cầu nắm bắt, ta sẽ được sự an tĩnh sâu xa như lời Phật đã dạy:An lạc có được khi biết từ bỏ những gì không phải của mình.

- Ta tập cõi lòng ta rộng mở, thường quán niệm tha thứ bao dung không chấp, không tự mãn thì ta sẽ có thêm niềm an lạc trong cuộc đời vô thường này.

- Ta quán niệm và nhận thức: Giận hờn trách móc, tranh giành, hơn thua, tham lam, tật đố chỉ đè nặng tâm thức ta, trưởng dưỡng tự ngã vô minh mà thôi, ta tập buông xả để hoán giải mọi vấn đề, tâm ta sẽ nhẹ nhàng hơn.

- Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh cảm thọ: Khổ, lạc hay bất khổ, bất lạc, quán sát tư duy để thấy không thực thể của các pháp hiện hành, giả hợp, sanh diệt khi ta không làm chủ được và khi không nắm bắt được các pháp ta sẽ cảm thấy khổ đau. Không vướng mắc, không vọng động, không can thiệp, đây là lối sống hạnh phúc an lạc do từ bỏ những gì không phải của mình.

- Ta biết sự tập trung vào một pháp hành mỗi sáng, tối, giúp chúng ta định tâm, thấu rõ được bản chất thật của kiếp sống, và mau trở về ngôi nhà xưa, là an trú vào nội tâm bất sanh bất diệt của mình.

- Tập trung vào sự quán chiếu, giúp ta thấu hiểu rõ bản chất thật của mọi hiện tượng, hiểu rõ nguồn gốc phát sanh ra mọi khổ đau là do vô minh tham ái, thấy được nguyên nhân sinh ra và nguyên nhân diệt đi, sự vô thường không thật của vạn pháp, sự bám víu vào tự ngã để rồi buồn vui ái thủ. Quán sát như vậy vô minh sẽ lùi tan và mặt trời tuệ giác sẽ chiếu soi, đem lại sự bình lặng chân thật miên viễn.

Câu chuyện Phạm Chí Hắc Thị.

Ngày xưa có Phạm Chí Hắc Thị tu đắc 5 pháp thần thông, thuyết pháp rất hay, ngay cả Trời Đế Thích cũng đến nghe pháp. Một hôm nghe pháp xong Trời Đế Thích lộ vẻ buồn bã, Phạm Chí hỏi: Ngài sao buồn khóc thế?

Trời Đế Thích nói: Tôi nghe Ngài giảng pháp rất hay, song tôi biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn 7 ngày nữa. Phạm Chí nghe xong hoảng sợ, xin Trời Đế Thích cứu cho, Trời Đế Thích từ chối, chỉ ông đến Đức Phật.

Phạm Chí bèn vội đi đến Đức Phật, trên đường đi ông thấy 2 cây ngô đồng đang trổ bông hoa đẹp, bèn dùng thần thông nhổ 2 cây đem dâng cúng Đức Phật, Phật liền gọi tiên nhân đến bảo:

- Hãy buông đi

Phạm Chí buông cây ngô đồng bên trái

- Phật lại bảo tiếp: Buông đi

Phạm Chí buông tiếp cây ngô đồng bên phải

- Phật lại bảo tiếp: Buông đi

Phạm Chí liền thưa: Bạch Thế Tôn, hai tay con đều buông cả rồi, Ngài còn bảo con buông gì nữa?

- Phật bảo: Ta chẳng bảo ông buôn gốc hoa đó, mà chính là bảo ông buông xả 6 trần bên ngoài, 6 căn bên trong, và 6 thức ở giữa kia kìa, tất cả một lúc buông sạch hết không còn chỗ nào để buông nữa, ngay đó chính là chỗ ông thoát khỏi sanh tử.

Phạm Chí ngay đó liền ngộ pháp vô sanh, lễ tạ Phật rồi đi.

Trong Tạp A Hàm Đức Thế Tôn tha thiết ân cần khuyên: "Này hỡi các đệ tử! Khởi điểm của một hành trình xa xôi này thật không thể quán niệm được, chúng sanh bị bao trùm kín mít trong màn vô minh, bị dây ái dục trói buộc chặt chẽ, không thể khám phá khởi điểm của cuộc luân chuyển triền miên, cuộc hành trình vô định".

Lời dạy đầy nhiệt huyết, từ bi của Ngài, chỉ cho chúng ta thấy con đường dài sanh tử không dễ để vượt qua, nếu chúng ta chỉ quán niệm sơ sài, mà vượt thoát được, phải quán sát tư duy thật sâu sắc bằng trí tuệ giác ngộ, thấy rõ được sự sanh khởi vướng mắc của tri thức, để hoán chuyển buông xả, thì lo gì không giải thoát.

Nước trên nguồn chảy xuống sông sâu và cứ thế sông cứ bình lặng êm ả chuyển tải những tinh khiết của nước nguồn và phù sa bù đắp vào sông nông rạch, ngòi chan hòa khắp nơi không nhiều không ít. Rồi hòa mình vào biển cả, đồng một vị không khác.

Tâm giác ngộ cũng thế chỉ một vị đó là giải thoát. Do không tư lường các pháp, nên không chấp trước nên không chấp thủ vật gì ở đời, do không chấp thủ nên không luyến ái, tự được tịch tịnh hoàn toàn, sanh khởi đã đoạn, những việc cần làm đã làm, không còn lui lại trạng thái khổ đau - "bình lặng nội tâm", chấm dứt cuộc hành trình luân chuyển triền miên vô định của tử sinh.

"Này các Tỳ Kheo, cái gì không phải của ông, hãy từ bỏ nó, từ bỏ sẽ được đến an lạc hạnh phúc cho các ông". Hãy thực thi lời Đức Thế Tôn đã dạy.

 

     

      Trân trọng

  TKN Thích Tâm Lạc

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8448)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8525)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10195)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14114)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8278)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16922)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11898)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16618)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12752)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 6845)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]