Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Như Ngọc Đức Như Thủy

23/03/201819:09(Xem: 8490)
Tâm Như Ngọc Đức Như Thủy

Ni Su Nhu Thuy 3a

TÂM NHƯ NGỌC ĐỨC NHƯ THỦY
 
Cung tiến Giác linh Cố Ni trưởng thượng NHƯ hạ THỦY
 
 
Hỡi ôi,
 
Nắng đổ Saigon,
Mưa giăng Mỹ quốc,
Lệ tòng lâm khóc cánh hoa đàm,
Những tưởng đâu mộng gá trăm năm,
Ai hay được cánh trầm vội tắt…
 
Chuông thiền môn nhỏ lệ,
Trống Bát Nhã trầm hùng,
Cõi hư vô áo phủi nhẹ tênh,
Đường giáo dưỡng từ nay vắng bóng…
 
Nhớ Ni trưởng xưa,
 
Hạt giống Phật sớm ươm mầm bao thuở,
Gặp duyên lành bỗng nở hoa thơm.
Kiếp tu hành vay nợ áo cơm,
Vì pháp vị sớm hôm cần nhọc.
Đỉnh Tương Kỳ chuyên tâm cầu học,
Mảnh vườn tâm vun gốc bồi cành,
Nợ đàn na thuyết Pháp lưu danh,
Ơn Thầy – Tổ quyết thành việc lớn.
 
Tuổi đời tuy ít,
Hạ lạp đã dày,
Giảng nghĩa kinh tỏ rạng đông tây,
Chỉ yếu nghĩa danh lừng Ni bộ.
Đạo phong vang dội,
Đức độ thơm hương,
Trên vì Thầy, đại lao thuyết Pháp,
Dưới từ bi thương xót chúng sinh.
Diễn chân kinh cứu khổ mê tình,
Nghĩa mầu nhiệm định hình sáng tỏ.
Khi Bát Nhã tận bày yếu chỉ,
Lúc Duy Ma sách tấn tu hành.
Mỗi bước chân chánh niệm thiền hành,
Người ươm hạt giống lành vào bốn chúng.
 
Lại nhớ,
 
Ni trưởng xưa xuất thân đường trí thức,
Nội điển tinh thâm, ngoại điển cũng tỏ tường.
Khi vân du thuyết Pháp giảng Kinh,
Nội – Ngoại giáo phân minh cặn kẽ.
Lời giản đơn mà đạo mầu thấu lẽ,
Lợi nhơn thiên không thể nghĩ bàn.
Chính nương nơi Pháp ngữ tâm an,
Bao người đã thuận duyên thế phát.
 
Quả thật là,
 
Tâm Người NHƯ ngọc rạng,
Đức sánh tợ THỦY lưu,
HUỆ đăng chiếu đêm sâu,
HẠNH lành soi bốn chúng.
 
Một bát hành thiện pháp,
Ba y chở đạo mầu.
Đơn giản nếp áo nâu,
Sống cuộc đời tỉnh thức.
 
Vẫn ngỡ,
 
Mộng nhân gian tháng năm dài giáo dưỡng,
Nào hay đâu một thoắt hiện vô thường.
Cõi nhân gian gá mộng chợt tan đường,
Một buổi sớm lặng vào tịch diệt!
 
Than ôi,
 
Bản hoài còn dang dở,
Trang Kinh vẫn chưa xong.
Nguồn Thiền xưa còn đợi một lối thông,
Mà tứ đại đã bụi hồng tan rã…
 
Lệ tứ chúng nhạt nhòa câu Kinh nguyện,
Nỗi niềm riêng cho quyện bước chân Thiền.
Người ra đi bặt cả muôn duyên,
Đường hạnh nguyện chắc còn hội nhập.
Tưởng Ni trưởng,
 
Thân tuy chẳng trú nơi Trúc Lâm Pháp hội,
Nguồn Thiền xưa vẫn bàng bạc giữa ngôn hành.
Hạnh từ bi hoằng hóa lợi sanh,
Gươm trí tuệ trấn ghềnh sinh tử.
Khứ như thử,
Lai như thử,
Khứ lai như thử,
Đường vô sanh chẳng thẹn nữ lưu.
Bóng chim bay bặt dấu mây mù,
Cõi diệt độ Niết Bàn tịnh lạc.
 
Người về trong câu hát,
Làm chủ phút tử sinh.
Lưu ý niệm yên bình,
Gửi lại tình thân giáo.
 
Tán thán rằng:
 
Tự, Viện lừng danh bậc trưởng Ni,
Ngôn hành, Pháp ngữ khó ai bì.
Đầu non tham học câu không tướng,
Lối thế hòa chung nếp tổng trì.
Thân bệnh còn say đường giáo hóa,
Đời nghèo vẫn rộng cửa từ bi.
Cành dương nước tịnh ươm màu áo,
Uế trược trần gian có sá gì!
 
Phủi áo mà đi,
Đi về nơi chẳng đi,
Đến ở nơi chẳng đến,
Pháp thân thanh tịnh,
Tùy nguyện nhi lưu,
Khứ như thử,
Lai như thử,
Khứ lai như thử,
Tuyệt vô chướng ngại.
 
Nhất tâm đảnh lễ Trúc Lâm Pháp phái, Viên Chiếu Ni viện giáo thọ sư,
Tân viên tịch Ni trưởng thượng Như hạ Thủy đạo hiệu Huệ Hạnh Giác linh tác đại chứng minh.
 
  
Dã Hạc Cư 20.03.2018
Trúc Lâm môn hạ đệ tử Trí Hải cung kính








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6630)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6924)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 928)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33917)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4723)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4676)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4631)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4591)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4918)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4633)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567