Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng niệm Giác Linh Ni Sư Trưởng Thích Nữ Như Thủy (1950-2018

21/03/201810:31(Xem: 8599)
Tưởng niệm Giác Linh Ni Sư Trưởng Thích Nữ Như Thủy (1950-2018


Ni Su Nhu Thuy 3
Tưởng niệm Giác Linh Ni Sư Trưởng Thích Nữ Như Thủy

(1950-2018)

Pháp hiệu Huệ Hạnh

Viên tịch ngày 17 tháng 3 năm 2018 (nhằm mùng Một tháng Hai năm Mậu Tuất)

Tại chùa Phổ Hiền - thành phố Worcester - tiểu bang Massachusetts - Hoa Kỳ

Thế thọ 69 năm- Hạ lạp 43 năm

 

Bài của Cư sĩ Thoại Hoa
 

     Sau buổi công phu tối, tôi ghé qua xem thư từ trên máy điên tử. Tôi vô cùng xúc động, được tin Ni Sư Trưởng Thích Nữ Như Thủy (Hạnh Huệ) viên tịch, do một chị bạn đạo cho hay tin buồn này. Than ôi ! Tôi vào Trang Nhà Quảng Đức thì hay tin xác nhận là đúng, Ni Sư Như Thủy đã viên tịch.

Cách đây cũng khá lâu, sau 1975, Ni Sư đã có chứng bệnh nan y, nhưng Ni Sư đã đươc Chư Phật Bồ Tát gia hộ, đã lành bệnh cũng được vài chục năm rồi.

 

« Con xin thành kính chia buồn cùng Thượng Tọa Thích Thông Lai và hai Sư Cô, bào đệ của Ni Sư, cùng Chư Tôn Đức Tăng Ni trong Môn Đồ pháp quyến của Ni Sư, chư Phật tử trong Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất và cho con xin có đôi lời kính tiễn biệt Ni Sư Thích Nữ Như Thủy. »

 

     Tuy tôi chưa được phước duyên gặp Ni Sư trực tiếp, nhưng tôi ngưỡng mộ và thường theo dõi trên mạng nghe những bài Pháp thoại của Ni Sư. Cách giảng dạy của Ni Sư khác hơn các vị Sư. Ni Sư thường mượn đạo tạo đời hay nói cách khác Ni Sư thường hành Phật sự ích đạo lợi đời bằng cách kể lại những giai đoạn chứng nghiệm trên bước đường tu của mình, phải vượt qua nhiều chông gai.

    

     Có ngờ đâu Ni Sư ra đi đột ngột quá. Tôi thiết tưởng Ni Sư phải còn có sức khỏe tốt cho nên Ni Sư mới đi hoằng Pháp trên xứ Mỹ. Tôi thường lên mạng nghe Ni Sư thuyết giảng, tai thì chăm chú nghe bài Pháp thoại, tay thì đan những chiếc áo ấm len để rồi đem tặng cho các bé sơ sinh người Pháp, con nhà nghèo. Cách giảng dạy của Ni Sư rất bình dị làm cho ai cũng tiếp thu được dễ dàng. Tiếng nói của Ni Sư hòa âm với tính nết nhu mì, thu hút thính giả vào một thế giới xa lạ thần thoại, tỏa ra một từ trường an lạc yên vui. Tuổi tôi cũng đã cao rồi, tuổi gần đất xa trời, nhớ lại những kỷ niệm gì mà mình nghe và học hỏi nơi Ni Sư và ghi khắc những ấn tích trong lòng tôi. Vài chuyện nho nhỏ qua những bài Pháp thoại của Ni Sư, tôi xin mạo muội kể lại.

 

     Ni Sư Như Thủy và ba người em xuất xứ từ một gia đình mà cha mẹ cũng là người xuất gia. Do cha mẹ phát nguyện rằng, hai vị có bao nhiêu người con đều cho đi xuất gia hết (trừ chị cả, đã ra riêng lập nghiệp, không đi tu). Quả thật đúng vậy, cha mẹ đã giữ y lời phát nguyện, bốn chị em của Ni Sư Như Thủy đều đi xuất gia! Cha mẹ của Ni Sư đi xuất gia cũng ly kỳ, đặc biệt, khác lạ hơn ai hết. Nếu nói theo giáo lý Phật Đà, thì do «túc trái nhân duyên» hai vị sinh thành của Ni Sư phải gặp nhau trong kiếp này, trải qua bao gian truân vất vả.

 

     Chuyện thứ nhì là lúc Ni Sư cùng đệ tử, một Ni Cô trẻ, cả hai người bị đày lên vùng kinh tế mới, đi đốn tre. Tội nghiệp cho nhị vị, chân yếu tay mềm, từ nào đến giờ có biết đốn tre ra sao đâu! Cây tre thì cao quá đầu người, làm sao mà đốn xuống, thật là khổ tâm vô cùng . Trong nhóm mười người đi đốn tre toàn là phái nam, chỉ có hai vị sư nữ. Mấy giới đàn ông, họ đang cười thầm để xem hai vị sư nữ này đốn tre ra làm sao. Hai tỷ muội cũng chẳng chịu thua cánh mày râu, tìm hiểu phải đứng cách nào và cho tre đổ xuống phía nào, thế là hai vị cũng đốn xuống một mớ tre. Tối về chiếc lều vải thô sơ để ngủ qua đêm, giữa rừng sâu hiu quạnh. Hai vị sư nữ trẻ, người ngoài hai mươi tuổi (Sư Cô Như Thủy) và người kia vừa tròn hai mươi tuổi, Ni Cô mới xuất gia, hai vị rất sợ màn đêm đổ xuống, hai vị treo lủng lẳng nồi niêu xoong chảo, cản trở lối ra vào, để báo thức hai vị sư nếu có kẻ gian đột nhập vào lều. Thật là tội nghiệp đáng thương cho hai vị sư nữ giữa chốn cô liêu rừng sâu núi thẳm.

     Một đêm nọ, hết nước uống, hai vị sư nữ xách bình đi tìm nước ở ngọn suối, nghe người ta nói không xa lắm, độ một cây số thôi. Hai sư cô cứ đi mãi, khá xa mà chẳng nghe tiếng suối reo đâu hết, thất vọng vô cùng. Dưới ánh trăng soi đường trong đêm khuya tĩnh mịch của núi rừng, chim đêm kêu, vượn hú, nghe lạnh người, bắt nổi da gà...Bỗng dưng trên đường đi, hai sư cô gặp vài người sơn cước, thổ dân, mới hỏi thăm ngọn suối nằm ở đâu mà tìm hoài không thấy. Họ chỉ cho hai sư cô đi một ngõ khác, đi một chập thì sẽ thấy ngọn đèn dầu leo lét trong một ngôi nhà vách đất mái tranh nghèo nàn thì hãy gọi to lên :«Cô Hồng ơi! Cô Hồng! » Cô Hồng sẽ đón hai vị vào, ra phía sau nhà, lấy nước giếng ngọt mà dùng. Hai Sư Cô nói lời cảm tạ, rồi lên đường theo phía chỉ dẫn. Đến nơi, y như lời căn dặn, Cô Hồng ra mở cửa đón hai sư cô và bảo: «Hai vị cứ lấy nước giếng ngọt lên, cứ tự nhiên tắm rửa, giặt giũ, chiết nước vào bình đem về mà dùng. »  Nói xong, Cô Hồng trở vào nhà. Hai sư cô hết sức mừng rở, liền tắm nước mát rượi, giặt quần áo rồi chiết nước đầy bình gánh về. Sáng hôm sau, mấy ông đốn tre thấy hai sư cô có nước uống, mới hỏi nước ở đâu mà hai sư có vậy? Hai sư cô chân thành kể lại chuyện tối hôm qua đi tìm nước uống...Theo sự chỉ dẫn của sư cô, mấy ông thợ đón tre lên đường đi lấy nước, họ đi mãi mà chẳng thấy một ngôi nhà nào hết, kỳ lạ thật! Có một người lớn tuổi trong nhóm thợ nói rằng ông là người thổ dân ở chốn này đã nhiều năm, biết nơi đây là rừng sâu, chẳng có nhà cửa gì cả, không có một bóng người ở nơi đây. Nghe đến đó, hai sư cô nhìn nhau, tự nhủ : «Hai chị em mình được Bồ Tát thị hiện trợ giúp gia hộ rồi, thật là mầu nhiệm! »

 

     Chuyện khác cũng ly kỳ không ít. Một ngày nọ, Ni Sư về một làng quê, ở lục tỉnh miền Nam, thấy có mấy đứa trẻ đang ham mê chơi đánh bi, thằng anh nào có để ý đến em nó, độ chừng một tuổi, đang bò ra bờ sông...Ni Sư thấy thế, đến bế đứa bé và la lên: «Bé này là em của đứa nào vậy? » Có một bé trai độ sáu tuổi, bẻn lẻn, nói the thẻ trong miệng: «Dạ, nó là em con. » Ni Sư thấy cảnh nghèo khó ở làng quê nằm xa thành thị, các bé không được cắp sách đến trường, động lòng, Ni Sư đi hỏi thăm muốn mua một miếng đất nhỏ xây lên một lớp học và Ni Sư sẽ đứng ra làm cô giáo dạy cho các em bé khỏi bị mù chữ. Có một ông chủ đất, chịu nhường bán một thuở ruộng và tặng cho Ni Sư bằng cách ông thuê người đổ đá, gạch vụn xuống thuở ruộng đó, xây lên một ngôi nhà làm trường học làng, tặng luôn cho Ni Sư  vì ông thấy việc làm phước thiện của Ni Sư thật là quý hóa, ông khâm phục. Ni Sư cho rằng đây cũng được Chư Phật Bồ Tát gia hộ trên bước đường tu của Ni Sư.

 

     Chuyện này cũng không khỏi làm Ni Sư ngạc nhiên. Ni Sư lên bệnh viện Sài Gòn để khám bệnh. Bác sỹ báo rằng bệnh trạng của Ni Sư khá trầm trọng, cần giải phẫu và họ ra giá. Ni Sư không có tiền để trả chi phí giải phẫu, đành đến bến xe đò để trở về quê. Lúc Ni Sư đi mua vé, thì có một cô gái kêu gọi Ni Sư. Cô này đến chào hỏi Ni Sư rất lễ phép và nói:  «Ni Sư không biết con, nhưng con biết Ni Sư vì đã nhiều lần con đến nghe Ni Sư thuyết pháp, con xin Ni Sư nhận phong bì này, con xin cúng dường». Ni Sư cảm động, nhận phong bì, tỏ lời cám ơn cô gái đó. Khi về tới nhà, Ni Sư mở phong bì ra thì đếm trong đó đủ y nguyên giá tiền chi phí cuộc giải phẫu mà nhà thương đòi hỏi. Đây một lần nữa, Chư Phật Bồ Tát đưa người đến đúng lúc để trợ giúp Ni Sư.

      Chuyện này, Thoại Hoa biết tin tới đây, nhưng không biết Ni Sư có lên Sài Gòn để giải phẫu không, nhưng mình chỉ thấy Ni Sư sau này đi hoằng Pháp mọi nơi trên lảnh thổ VN và còn đi ra hải ngoại như Úc Châu và Mỹ Châu, mình mừng thầm là Ni Sư khỏe mạnh lại bình thường mới chạy đi tứ phía không màng gian khổ.

 

      Viết tới đây, một lần nữa, tôi tỏ lòng thương tiếc Ni Sư, trọn một đời chịu khổ lo cho đạo, lo cho đời. Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất mất đi một trụ cột, một lãnh đạo tài ba, hiền đức, nhẫn nhục, khiêm tốn, uyển chuyển, khéo léo hoằng pháp lợi sanh.

      Có lẽ việc đạo, việc đời, Ni Sư đã làm trọn vẹn, nay đành giao lại cho đời, cho những đệ tử xuất gia như tại gia, những người nối gót kế sau.

    

      Con xin kính cẩn đê đầu đảnh lễ trước Giác Linh của Ni Sư và ngưỡng nguyện cho Giác Linh Ngài Cao Đăng Phật Quốc, sớm hội nhập Ta Bà, thân phân vô số, hoằng dương Chánh Pháp, hóa độ chúng sanh.

 

Nam Mô Tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

 

ni su nhu thuy-5

Kính tiễn Ni Sư Trưởng Thích Nữ Như Thủy

 

Dẫu biết rằng hợp ắt có tan

Bài học vô thường cõi trần gian

Làm sao tránh khỏi đôi dòng lệ

Hương hoa ưu đàm tỏa ngập tràn!

 

Đốt nén hương lòng dâng Sư Thầy

Những lời hoằng pháp vẫn còn đây

Tự tại về thế giới An Lạc

Một đóa sen nở bên trời Tây!

 

Kính bái bạch Giác Linh Sư,

 

Thoại Hoa

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2010(Xem: 6804)
Xin cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Tác giả mang ơn sâu đối với Thiền Sư Thích Thanh Từ và Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát vì các công trình nghiên cứu và dịch thuật của hai thầy mà tác phẩm này đã dựa vào để tham khảo; và đối với bổn sư tác giả là Thiền Sư Thích Tịch Chiếu. Tác phẩm này được đặc biệt dâng tặng tới các thế hệ trẻ, và phổ quát dâng tặng cho tất cả chúng sinh.
16/12/2010(Xem: 4714)
Lời Phát Biểu của HT Huyền Quang tại Tang Lễ Ôn Đôn Hậu ngày 3-5-1992
10/12/2010(Xem: 7670)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
04/12/2010(Xem: 4512)
Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ, để ra đi tìm phương giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Lối 1332 năm sau Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi Yên Tử để xin xuất gia, mong trở thành sơn tăng sống cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua cha ép buộc nên phải trở về để kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc lòng mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị Đông Cung Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã thể hiện được con người siêu việt khác thường.
25/11/2010(Xem: 23414)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
24/11/2010(Xem: 9379)
Tiểu sử nhà văn Quách Tấn
15/11/2010(Xem: 7009)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6589)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567