Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Nghĩa Úm Ba La

27/01/201816:03(Xem: 6019)
Tâm Nghĩa Úm Ba La

tam nghia
Anh Tâm Nghĩa tại ngày Tri Ân quý Huynh trưởng Thâm Niên và Cao Niên của Miền Liễu Quán. Ảnh Lý T. Hoà Nhã.



TÂM NGHĨA – BA LA ÚM BA LA
Nam Cali nắng ấm, nhưng bỗng nhiên lạnh lẽo hơn mọi khi mình đến. Nghe tin anh bệnh nặng và đang hấp hối, nhưng vì vẫn còn làm công tác giáo dục ở xa nên không đến bệnh viện niệm Phật cầu gia bị cho anh. Nhưng mừng vì đã có Thượng Tọa Thích Từ Lực, Ni Sư Thích Nữ Tiến Liên, Htr. Cấp Dũng Tâm Duy Phan Duy Chiêm và đầy đủ quý anh chị huynh trưởng, lớn có, nhỏ có và những người thân đã đến hộ niệm vãng sanh cho anh. Vì tuổi già sức yếu, Huynh trưởng cấp Dũng – Tâm Nghĩa – Lê Hữu Đàng đã mãn phần vào lúc 4 giờ 30 sáng, ngày 23 tháng 01 năm 2018 tại bệnh viện ở thành phố San Jose, California.  Anh thong dong tự tại ra đi giữa đêm khuya tịch mịch như ánh trăng vẫn chiếu sáng khắp cõi muôn trùng.


Huynh trưởng Tâm Nghĩa – Lê Hữu Đàng là một vị huynh trưởng cao niên và thâm niên của Tổ chức GĐPT; anh cũng là cháu ruột của Đức Đệ Nhất Tăng Thống – Thích Tịnh Khiết. Trưởng Tâm Nghĩa, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1934 tại làng Dưỡng Mong, Huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên, là thành viên của Ban Cố Vấn BHD GĐPT Miền Liễu Quán và Thành viên Hội Đồng Cố Vấn Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ.


Sự ra đi của anh là sự nối tiếc của biết bao nhiêu lam viên, trong đó có anh Tâm Tuệ Cái Ngọc Văn, Trưởng Ban Hướng Dẫn GĐPT Miền Phước Huệ, trong khi nhìn tuyết rơi, nghe tin anh Đàng mất mà lòng se lạnh để rồi anh bất chợt cảm xúc truông trào:
Một sát na tĩnh lặng 
Nguyện cầu chơn linh anh
Thong dong cùng chiếc gậy 
BA LA ÚM BA LA
Anh Tâm Tuệ kể: “Có một lần anh Đàng đang chống gậy bước vào Chùa, nhướng cặp mắt đeo kính nhìn vừa cười vừa hỏi?
 - Rứa em đi mô?  
  * Ba La Yết Đế 
 -  Chưa được, anh em mình nghiệp còn nặng. Hai anh em cùng cười và hát. ÚM BA LA... Bùm.
Chữ Ba la mật đa 
Um, Án, Om
Chữ đó, thì không thể nghĩ bàn. Không thể diễn đạt. Anh Đàng lúc còn trẻ từng Chết trong mỗi sát na, mà vẫn không rời bỏ chiếc Ao Lam. Đến lúc sắp từ giã cõi đời, vẫn nụ cười hoà dịu trong tình Áo lam.” Anh lại nhắc: “Sao anh em chúng mình tỉnh thức ở mô? Mà không cùng nhau lắng động... ngồi lại với nhau. Suy gẫm và hát vang lên, không gian cũng vang lên ÚM BA LA. Cười với nhau thật là Cười. Rỗng rinh không có chi hết! Cười...”
Đó. Ba La Úm Ba La là thế; nó là bài hát anh Đàng thường chia sẻ. Còn vợ chồng anh chị Htr. Nguyên Phú và Nguyên Nhơn thức khuya để tìm hình cũ để tỏ lòng tri ân và thương tiếc: “Em xin gửi đến quý AC một ít hình ảnh của Anh Đàng thay cho lời tri ân và thương tiếc! (Xin xem ở đây)

1. Chu Niên 30 GĐPT KQ 8/2008
2. Lễ Hiệp Kỵ và Thọ Cấp Tập, TX Ngọc Hoà, 4/2009
3. Trại HL A Dục Lộc Uyển Miền LQ, KQ 12/2010
4. ĐH HTr Miền Liễu Quán, 2/2012
5. Lễ Thọ Cấp Tín, KQ 11/2014
6. HT Thái Hoà thăm HTr Bắc Cali, Phổ Từ, 11/2014
7. Lễ Chúc Thọ, NPĐ Fremont 3/2017


Nhìn những hình ảnh này, chúng ta sẽ xúc động hơn vì tuổi già, tóc bạc phơ, đi đứng với chiếc gậy, nhưng vẫn luôn đồng hành và sinh hoạt với đàn em thân yêu. Anh rất duyên dáng, hiền lành và kể chuyện thật hay. Con người anh đôn hậu, ung dung và thanh thản. Anh có giọng điệu trầm ấm, những câu chuyện mà chúng tôi thích nhất từ anh là Đàn Vịt Trời, Con Voi, Hai Con Ếch, và Rừng Mắm. 
Thế là từ nay không còn nghe được giọng nói ngọt ngào và nhìn thấy nụ cười hiền từ trên môi anh. Nhưng chúng tôi biết và anh sẽ rất vui và hạnh phúc, khi đàn em của mình vẫn còn sinh hoạt và thương yêu nhau. Thôi tì em xin ghi lại và chuyển dịch chuyện Rừng Mắm của anh như là một kỷ niệm khó quên. Nguyện cầu Đức Phật A Di Đà phóng quang tiếp độ cho anh, Vãng sanh Tịnh Độ. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật


RỪNG MẮM
Đất nước Việt Nam cứ mỗi năm dài thêm ra được độ chừng 20 thước vì được bồi bởi đất phù sa của giòng sông Cửu-Long tại vùng Năm Căn, Cà Mau...
Vùng đất mới được bồi thêm vì quá gần Biển Đông nên đất còn chứa nhiều "nước mặn phèn chua" vì vậy không một loại cây nào có thể sống được ngoại trừ cây Mắm.
Cây Mắm làm nhiệm vụ hút hết "nước mặn phèn chua" rồi gục chết và làm phân bón cho một loài cây khác là cây Tràm.
Cây Tràm làm tiếp nhiệm vụ được giao là hút sạch "nước-mặn + phèn-chua còn sót lại" và giữ nước do những cơn mưa mùa và nước ngọt từ giòng sông Cửu-long + biển-hồ Tonlésap chảy ngang qua trước khi xuôi giòng ra biển.
Vài trăm năm sau những người di dân đã đến vùng đất này, thấy đất đã thuần có thể trồng trọt được nên kéo nhau đến định cư và bắt đầu khai-hoang chặt bỏ cây Tràm để trồng trọt sinh sống.
Dân khai hoang lúc đầu lưa thưa, năm ba người, nhưng càng về sau càng đông và những Ruộng Lúa + Vườn Cây ăn trái đã thành Trù-phú như hôm nay chúng ta đã thấy...
Trước năm 1975, khi đi hành quân ngang qua cánh đồng mênh mông lúa chín và xa xa là những vườn cây ăn quả, tôi lặng người sửng sờ trước một cái trũng nước rộng đường kính độ chừng vài chục thước, và thấy còn sót lại năm ba cây Mắm bên cạnh  gần chục cây Tràm dưới đáy trũng nước u buồn, xa xa là vườn cây xanh mát, xung quanh là cánh đồng lúa chín reo vui và tôi ngậm ngùi cất bước.
Tâm Nghĩa - Lê Hữu Đàng
THE FRONTIER FOREST
Viet Nam, our beloved homeland, gets a bit longer every year, about 20 meters or so because of alluvial deposits from the Mekong River in Ca Mau- the Southern most part of the country.
Due to its close proximity to the East Sea, the new land contains high level of "alum salt water" or salinity level and thus is unable to sustain plant life, except for Cây Mắm.
Cây Mắm extracts the “alum salt” or salinity from the water and then dies to become fertilizer for other crops – Cây Tràm.
Cây Tràm then does the remaining task of cleaning up the leftover salty water.  It also holds rain water and stores fresh water from the Mekong River. This fresh water originates from Tibet and runs through Biển Hồ - Tonlesap in Cambodia before flowing out to the sea in Vietnam.
For hundreds of years afterwards, immigrants encountering this land saw that it was tillable, settled there and began chopping down the Cây  Tràm for more profitable farming.
The settlers were few at first being four or five persons but many went later to plant prosperous rice fields and orchards seen today.
Before 1975, when marching through the vast fields of grains and viewing the orchards from a distance, I was stunned to see a still pond that had a few Cây Mắm with a dozen or so Cây Tràm side by side- standing endless in time.  Nowadays, the land is as green as a mat, surrounded by orchards and dancing rice fields. I mournfully walk by- such is the way of life.
Translated by Phe Bach
Có lẽ anh đã là hiện thân của Cây Mắm, Cây Tràm để giữ đất và vun bồi phù sa cho đàn em áo Lam, rồi anh ung dung sinh hoạt dưới cội Bồ Đề đem tiếng cười, tin yêu và hy vọng giữa bao nhiêu áo Lam để rồi anh ra đi thong thả trong câu kinh tiếng kệ và trong niềm thương yêu của biết bao nhiêu người. Anh Tâm Nghĩa đó; anh chính là:
CỘI TÙNG GIỮA RỪNG LAM
Bao nhiêu năm sinh hoạt
Với Phật tử áo Lam
Vẫn miệt mài tận tụy
Vun bồi hạt giống Lam
Vẫn nhẹ nhàng thư thái.
Vẫn từ tốn thảnh thơi
Trung kiên với đạo pháp
Bốn tâm lớn để đời.
Ung dung về cõi Phật
Trong tiếng kệ câu kinh
Tình thương Ba La Mật
Quyện lời Kim Quang Minh
Anh đi Mây qua núi
Anh đi Hạc qua sông
Tâm có trước trời đất
Thân có sau đất trời
Anh về miền Vô sự 
Thân tâm hoá đất trời!
Kính tiễn anh về Cõi Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật


Tâm Thường Định
Sacramento, Ngày 24 tháng 1, 2018.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14905)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8508)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8599)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10270)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14184)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8370)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17343)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 12074)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16724)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12944)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]