Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Đã Ra Đi - Bản Thệ Vẫn Còn

21/12/201706:17(Xem: 5346)
Người Đã Ra Đi - Bản Thệ Vẫn Còn



Chan Dung HT Thich Duc Chon-5

Người Đã Ra Đi - Bản Thệ Vẫn Còn

 (Vô vàn thương quý Hòa thượng Thích Đức Chơn)


Ý Chỉ Và Hành Động

Trong thời Đệ nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, từ 1954 đến 1963, Phật giáo bị đối xử như một hội đoàn thông tục mà không phải là một Giáo hội; Thiên Chúa Giáo được đối xử và hưởng đặc quyền của một Giáo hội vượt lên trên quyền lợi của mọi hội đoàn qua Đạo dụ số 10. Một Đạo dụ đánh mất sự bình đẳng Tôn giáo mà chính phủ Pháp đã chỉ đạo và mượn danh Quốc trưởng Bảo Đại ban hành ngày 06/8/1950. Đạo Dụ này đến thời Tổng thống Ngô Đình Diệm (1954 – 1963) vẫn tiếp tục áp dụng để khống chế quyền Tự do Tôn giáo tại Việt Nam, ngoại trừ Thiên Chúa Giáo.

Từ sự đối xử mất bình đẳng ấy, dẫn đến cuộc đấu tranh bất bạo động đòi hỏi tự do, bình đẳng Tôn giáo của Tăng Tín đồ Phật giáo Việt Nam đối với chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm. Năm 1963, chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo trong ngày Đại lễ Phật đản và bắn chết các Phật tử tại Đài phát thanh – Huế.

Từ đó, Tăng Ni Phật Tử yêu cầu chính quyền làm sáng tỏ vụ việc, ai là người chủ trương bắn chết Phật tử tại Đài phát thành Huế, và yêu cầu chính quyền tôn trọng Tự do nhân quyền và Bình đẳng Tôn giáo, đáp ứng năm nguyện vọng của Phật giáo đồ, do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam lãnh đạo.

Chính quyền bấy giờ đã không đáp ứng năm nguyện vọng chính đáng này của Tăng Tín đồ Phật giáo, mà lại còn đàn áp Tăng Tín đồ Phật giáo mỗi ngày, mỗi thêm khốc liệt, “Máu đã đổ, Tăng Ni Phật tử chúng tôi sẵn sàng đổ máu”, khiến ngọn lửa Đại hùng của Bồ tát Thích Quảng Đức bùng lên đầu tiên, vào ngày 11/6/1963, tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, bên ngoài tòa Đại sứ Campuchia ở Sài Gòn; ngọn lửa Thích Thanh Tuệ, Thích Tiêu Diêu bùng lên ở Huế, Thích Nữ Diệu Quang bùng lên ở Ninh Hòa, Thích Nguyên Hương bùng lên ở Phan Thiết; ngọn lửa Quảng Hương bùng lên ở công trường Diên Hồng, Sài Gòn sau chiến dịch “nước lũ”, ngọn lửa Thích Thiện Mỹ bùng lên ở trước mặt nhà thờ Đức bà, Sài Gòn, trong thời điểm phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến điều tra sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm, tại Việt Nam, và rồi với biết bao tâm can nghĩa khí của Tăng Ni Phật tử nguyện tiếp nối những ngọn lửa đại hùng dưới nhiều hình thức khác nhau, khiến cho sắt cứng phải mềm, đá cứng phải chảy và cho dù tâm hồn chai lì vô cảm đến đâu cũng chuyển động và thức tỉnh.

Ngọn lửa của Tôn giả Quảng Hương đã bùng lên vào lúc 12 giờ 05 phút, trưa ngày 05/10/1963, nhằm ngày 18/8/Quý Mão, tại Công trường Diên Hồng, trước chợ Bến Thành, Sài Gòn, sau chiến dịch “Nước lũ” ngày 20/8/1963 của chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm, và trước khi khối Á Phi đưa vấn đề “kỳ thị đàn áp Tôn giáo tại Việt Nam ra trước Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc”. Trước khi tự thiêu Tôn giả đã để lại huyết thư, gửi Tổng thống Ngô Đình Diệm, Tôn giả Quảng Hương nói: “Đấu tranh cho đến cùng, khi nào quyền tự do căn bản được tôn trọng mới thôi”.

Chính những ngọn lửa này đã đẩy thúc cuộc đấu tranh bất bạo động của Phật giáo đồ, năm 1963 đi tới thành công, mà nhục thân của Tôn giả Quảng Hương và nhiều vị Thánh tử đạo đã bị chính quyền cướp mất, cho đến giờ này không biết họ tiêu tán nơi đâu!

Hòa thượng Thích Trí Thủ, Nguyên Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, thiết lập Tu viện ở Sài Gòn lấy tên Quảng Hương là để đào tạo những thế hệ Tăng sĩ tu học ở nơi đây theo tinh thần và hạnh nguyện của Tôn giả Quảng Hương, nghĩa là sẵn sàng hy sinh tính mạng để đuổi tà, hộ chánh, trấn giữ Già lam, bảo vệ Đạo pháp và Dân tộc đến cùng.

Hòa thượng Thích Đức Chơn được Bổn sư ủy cử trách nhiệm Trú trì Tu viện Quảng Hương Già Lam với ý chỉ ấy.

Phụng hành ý chỉ của Bổn sư, Hòa thượng Thích Đức Chơn sẵn sàng làm bất cứ điều gì dù khó khăn đến mấy, dù gian nguy cỡ nào, cũng một mực kiên trinh không hề thoái chuyển cho đến hơi thở cuối cùng.

ht duc chon

Hòa thượng Thích Đức Chơn khi đảm nhận Trú trì Tu viện Quảng Hương Già Lam đã hết lòng với Bổn Sư và chư Tôn đức lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đào tạo nhiều thế hệ Tăng tài cho Phật giáo Việt Nam, cũng như ươm mầm và nuôi dưỡng tạo thành những sinh chất, cho những thế hệ trẻ mà cụ thể là Tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Tổ chức “giáo dục thanh thiếu đồng niên, trở thành những Phật tử chơn chánh, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo” này, bây giờ đã lan tỏa khắp cả năm châu bốn bể, góp phần làm vẻ vang trang sử Việt. Với cách nhìn xa thấy rộng về Pháp nhân, Pháp lý tương lai của Gia Đình Phật Tử, Hòa thượng đã chỉ đạo thành lập Hội Đồng Cấp Dũng của Gia Đình Phật Tử Việt Nam để tập thể huynh trưởng cấp Dũng chịu trách nhiệm sự thịnh suy của Gia Đình Phật Tử Việt Nam và Thế Giới.

Hòa thượng Thích Đức Chơn là Người hết sức trân quý chí nguyện cao cả của Tôn giả Quảng Hương, nên khi làm Trú trì Tu viện Quảng Hương Già Lam, Người đã để ra cả một thời gian khá dài, đi tìm kiếm nhục thân của Tôn giả Quảng Hương, để xây cất bảo tháp thờ phụng, nhưng không thể nào tìm ra dấu tích. Tại Tu viện Quảng Hương Già Lam, mỗi buổi khuya, sau thời lễ Phật công phu, chư Tăng tại Tu viện đều xướng danh hiệu của Tôn giả Quảng Hương để đảnh lễ, nhằm tưởng niệm và un đúc chí nguyện của bậc xuất trần Thượng sĩ, vì Pháp quên thân; đem “chí nhân” mà nhiếp phục hung tàn, đem “đại nghĩa” mà nhiếp phục những kẻ cuồng ngông.

Trong Đại Hội Bất Thường của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, năm 2003, tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, Hòa thượng Thích Đức Chơn đã được Đại hội cung thỉnh vào thành viên Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo, kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sĩ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Năm 2012, tại Tu viện Quảng Đức, Thủ Đức - Sài Gòn, Hòa thượng đã được Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh, cung thỉnh lên ngôi vị Thượng Thủ ở trong Bản Thệ Tăng Già.

Đối với Hòa thượng, mọi Phật sự dù lớn, dù nhỏ và cho dù khó khăn đến mấy, thì Người vẫn hoan hỷ hành hoạt không có từ nan bất cứ một yêu cầu Phật sự nào.

Mới cách đây mấy tuần, lễ chung thất cố Hòa thượng Thích Quang Đạo, tại Đồng Nai, Hòa thượng đã đại lao hiện tiền chư Tôn đức Tăng, ban Đạo từ cho hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử, “khuyến tấn tu hành, giữ gìn tinh nghiêm giới luật, tiếp nối mạng mạch Phật pháp, phụng sự chúng sinh, báo đáp ân đức Thầy Tổ”.

Vào ngày 17 tháng 9 năm Đinh Dậu, nhằm ngày 05 tháng 11 năm 2017, trong Giới đàn Thiện Minh, tại chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Hòa thượng làm Đàn đầu thí giới Sa di, Cụ túc và Bồ tát giới xuất gia cho các giới tử và cũng tại ngay nơi trú xứ Già lam này, Hòa thượng đã chứng minh Đại lễ tưởng niệm 40 năm kỷ niệm húy nhật của Hòa thượng Thích Thiện Minh, Nguyên Cố vấn Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo; Nguyên Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo; Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên và chư Tôn đức trong Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất đã viên tịch, cũng như những vị ân sư quá cố, tiền bối hữu công của Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Hạnh nguyện của Hòa thượng là vậy, nên hơn bảy mươi năm trước, khi mới bắt đầu bước vào cửa Phật tại Tổ đình Báo Quốc – Huế, xuất gia học đạo với Hòa thượng Thích Trí Thủ, Bổn sư đã ban cho Người pháp danh Nguyên Mỹ. Nghĩa là “người học trò có hạnh nguyện cao đẹp, ngay nơi cội nguồn giác ngộ từ buổi sơ tâm”.

Bản Thệ Tăng Già

Trong kinh đức Phật dạy: “Sự có mặt của Ngài giữa cuộc đời là vì sự lợi ích, sự an lạc cho thế giới chư Thiên và loài Người”. Ấy vậy, chư thiên sống trong tà kiến, loài người sống trong vô minh, chấp thủ năm uẩn là “Ngã”, khiến tham sân si, kiêu mạn dẫy đầy, nhận giặc làm con, nhận oan gia làm bằng hữu, mê lầm chân lý, tưởng khổ là vui; sống trong bất tịnh mà tưởng là thanh tịnh; sống trong trói buộc mà tưởng là tự do; sống trong ngăn cách mà tưởng là hòa hợp; sống đua đòi theo đám đông mà tưởng là hiện đại; sống trong đối phó mà tưởng là đang thực hành “đại nghĩa, chí nhân”; sống theo biển thức mê lầm mà tưởng là giác ngộ.

 Phật Pháp Tăng có mặt giữa cuộc đời là để hàn gắn lại những gì đã bị đổ vở; dựng đứng lại những gì đã bị xiêu vẹo; bật ngọn đèn cho mọi người thấy; dẫn đường cho mọi người đi, vượt qua đêm dài tăm tối tử sinh, vượt qua biển cả bão mưa dối trá, ngông cuồng để đến bến bờ chân thật.

Hòa thượng Thích Đức Chơn là một trong những vị Tăng sĩ, một thời đã từng đối diện với tử sinh, với tai trời ách nước, với lịch sử đầy cuồng nộ, bạo khí hung tàn, nhưng không hề nao núng với chí nguyện Thượng thừa, đi từng bước chân vững chãi như voi chúa lâm trận giữa những làn tên, dáo mác; giữa những binh khí miệng lưỡi khen chê, giữa những vu khống, đặt điều, Người đã cất cao tiếng gọi thỉnh mời những Tăng sĩ xuất trần, vì chí nguyện Đại thừa, với trí bi song vận, Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sinh, cùng nhau liên kết trong Bản Thệ Tăng Già, làm sở y cho Tứ chúng đồng tu; làm ruộng phước cho thế giới Trời, Người gieo hạt; làm hải đăng cho những thuyền trưởng bị lạc hướng quay về; làm hải đảo an toàn cho những ai đã từng đánh mất nguồn cội, phế bỏ chơn nguyên; bưng ngọn đèn Chánh pháp đứng giữa phong ba, mặc cho yêu ma la hét; mặc cho sấm chớp mưa sa, Người vẫn đứng đó trong Bản Thệ Tăng Già bất động, để có thể hàn gắn lại những gì đã bị đổ vở, dựng đứng lại những gì đã bị xiêu vẹo, bật ngọn đèn cho mọi người thấy và chỉ đường cho mọi người đi, như đức Thế Tôn một thời đã ân cần chỉ dạy Tăng đoàn.

Người đã ra đi

Vào lúc 4 giờ khuya, ngày 10 tháng 10 năm Đinh Dậu, tức ngày 27 thánh 11 năm 2017, Hòa thượng Thích Đức Chơn đã từ giã huyễn thân tại Phương trượng Tu viện Quảng Hương – Già Lam – Sài Gòn để ra đi, như bậc Thượng sĩ đùa chơi trong gió sớm, hơi thở vút bay, chạm vào cõi trăng nước mênh mông, xuyên qua muôn ngàn ngõ ngách quán trọ, tuyệt bặt thanh âm, chứng nhập cõi uyên nguyên, muôn đời tịch mặc.

Huyễn thân của Người, chừ đã trở thành mây trời lồng lộng, che phủ nắng quái, mưa chang, để quê hương dập tắt tâm can sầu hận; Huyễn thân của Người, chừ đã trở thành những giọt nước cam lồ rưới tắt vọng kiến si mê, nơi những kẻ yếu hèn bươn theo danh lợi, cam lòng làm theo mệnh lệnh tà ma, quên mất đạo nghĩa thầy trò, quên mất chí hùng Thượng sĩ; Huyễn thân của Người, chừ đã trở thành tiếng sấm hùng uy, đánh thức những ai đang say mê nơi cung thành ảo vọng, tỉnh dậy xả buông hướng về Bảo sở; Huyễn thân của Người, chừ đã trở thành ánh đèn ngời sáng rọi soi, giữa trường dạ mênh mông, khiến bao kẻ lạc đường quay về bến giác, sống và hành hoạt theo Bản Thệ Tăng Già, chăm sóc hạt giống tốt đẹp cho hết thảy chúng sinh, làm nơi nương tựa cho Tứ chúng và tổ chức Áo Lam, “đào tạo những thanh thiếu đồng niên trở thành những Phật tử chân chánh góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo”.

Tuy, Người đã ra đi, nhưng âm vang vẫn còn vang vọng như tiếng hải triều chạm vào núi đá, như tiếng gầm Sư tử giữa chốn sơn lâm: “Hỡi những bậc có phước đức xuất gia, hãy buông bỏ những tâm chí khiếp nhược, yếu hèn, tiếp nối chí hùng Phật Tổ, nhìn danh lợi như bụi bám vào mắt; xem vinh hoa như đôi dép bỏ, thấy phú quý như thấy miếng giẻ rách, chỉ đến và đi từ Bản Thệ Tăng Già, với Đại Nguyện Từ Bi, với Đại Tâm Vô Trú, nếu không như vậy, há lại là những kẻ lạm xí Tăng luân hủy hoại Chánh pháp ư?!”.


ht duc chon 2



 

Kim Thế Hậu Thế Tịnh

Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh, Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Việt Nam, Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử Việt Nam và Thế Giới, cũng như các Ban Hướng Dẫn trực thuộc, đã làm lễ Tưởng niệm Hòa thượng Thích Đức Chơn, Viện chủ Tu viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn, đương kim Thượng thủ Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh, vị Ân Sư của Gia Đình Phật Tử Việt Nam và Thế Giới, vào lúc 19 giờ, ngày 12 tháng 10 năm Đinh Dậu, nhằm ngày 29 tháng 11 năm 2017, trước giác linh đài của Người, tại Tu viện Quảng Hương Già Lam – Sài Gòn, để tỏ lòng thương quý, tôn kính đức hạnh và nguyện lực của một hành giả, một bậc Thầy khiêm cung suốt đời “Vô ngôn nhi giáo”, nói ít làm nhiều; âm thầm mà hùng dũng; nhẹ nhàng mà cương quyết; không là trí thức khoa bảng, nhưng đầy chất liệu trí tuệ, thấy rõ chân giả hiện tiền, nên khử vọng tùng chơn, buông quyền hiển thực; không là nhà nghiên cứu, học giả, nhưng lại thâm nhập nghĩa lý Tiệm, Đốn của Phật-đà; nhận rõ huyền cơ Quyền, Thực của Thầy Tổ trao truyền; không tư duy theo thói đời ao rãnh, mà thẳng vào “biển tính trừng thanh”; sống có nghĩa tình với gia đình quê hương xứ sở, nhưng không hành xử như những kẻ lưu tục phàm tình; sống hòa hài với đệ huynh, với tình linh sơn cốt nhục, nhưng chánh tà minh bạch, mê ngộ rõ ràng; không phải là nhà chiến lược giỏi, nhưng xuất nhập đúng thời, ứng xử đúng cơ, phát ngôn đúng tình, đúng lý!

Người là vậy, nên Hội Tăng Già Chứng Minh và Hội Đồng Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Việt Nam tưởng niệm Người với lời xưng tán: “Kim Thế Hậu Thế Tịnh”. Nghĩa là: “Đời này thanh tịnh, đời sau thanh tịnh”. Và Trí Quang Thượng Nhân lại xưng tán Người: “Sinh Tử Như Chơn”. Nghĩa là: “Sống ở trong Chân Như và chết ở trong Chân Như”.

Những lời xưng tán ấy, không phải là những lời tán dương đối phó hay những ca từ trống rỗng, mà là những lời thoát ra từ công hạnh ngày đêm miên mật hành trì của Người, qua tám mươi sáu năm trú thế, gần bảy mươi năm tu tập, hành đạo, xuyên suốt những thời kỳ biến thiên lịch sử khôn lường, với nhiều thế hệ tiếp nối khác nhau.

Dù huyễn thân của Người đã ra đi, với khói, với mây, với nắng chiều hắt qua song cửa, với hạt sương khuya rơi chạm thiền phòng, nhưng giữa cõi trăng sao, Bản Thệ Tăng Già của Người vẫn sáng ngời bất hoại!

    Chùa Phước Duyên – Huế, ngày 05/12/2017
  Thích Thái Hòa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 6519)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 4532)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4490)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4418)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10314)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5157)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 5974)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6514)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7816)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9011)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567