Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gạn đục khơi trong

25/10/201713:56(Xem: 4845)
Gạn đục khơi trong


Dai Lao Hoa Thuong Thich Tac An (5)

GẠN ĐỤC KHƠI TRONG

(Những dòng kỉ niệm cùng Cố Hoà thượng Viện chủ Chùa Thiền Tôn 2)


Một bữa nọ, tôi ghé qua Thiền Tôn có chút việc vào giữa trưa. Do có hẹn với thầy trụ trì trước, nên tôi ngồi ở băng ghế đá và chờ thầy đi đám về. Lúc này sư ông mở cửa phòng đi ra rồi ngồi ở bàn ăn bên cạnh - chỗ mà sư ông vẫn hay ngồi. Tôi đến chắp tay xá chào sư ông, sư ông cũng xá chào lại. Lúc này, quý sư cô trong chùa và Phật tử cũng vừa ở đám về, chợt ở đâu trên trường lan đang lợp ngói có tiếng anh thợ hồ vọng xuống:

- Mấy cô, hồi nãy ở chùa đi hết, có ông nào cầm cái giỏ cứ lẻo đẻo theo hòa thượng trước phòng hoài, mấy cô hỏi hòa thượng thử coi có mất gì không ?

Mấy cô nghe xong chạy đến chỗ sư ông han hỏi. Sư ông vào phòng xách ra cái giỏ ni lông, mở lấy hai tượng Phật giống y nhau bằng đồng dính đầy đất sét để lên bàn:

- Nó nói tui nó mới đào được ở bên Cát Lái. Nói bán tui ba chục triệu.

Mọi người xúm lại quanh bàn sư ông:

- Rồi sư phụ mua của nó ba chục triệu hả ? Sư phụ bị nó gạt rồi. Mấy cái tượng này làm gì mà đến ba chục triệu. Mà sao nó dính đất sét tùm lum, chắc đồ cổ hả sư phụ ?

Sư ông cười:

- Tui vô phòng lấy bảy triệu bỏ túi định đưa nó, mà nghĩ đưa nó bớt lại, còn giữ một triệu ở đây. Thành ra hai bức có sáu triệu àh.

Mọi người bàn tán:

- Vậy mà tụi con tưởng sư phụ mua hai bức này mà ba chục triệu chứ. Nếu có sáu triệu thì cũng được. Nhưng cái này không phải đồng đặc đâu sư phụ. Có cái vết hàn ở dưới đế nè. Nó đổ cát vào, tụi con lắc nghe sột soạt nè.

Sư ông cười nói:

- Lấy cái gì nạy cái đế để đổ hết cát ra. Nhìn cái tượng này làm rất đẹp, trên áo hay cánh sen gì cũng có Phật, nên mua vậy tui nói không có mắc đâu, quá trời Phật mà mắc gì ?

Mấy cô mới cầm tượng lên đếm số vị Phật trên áo và trên cánh sen:

- Chắc cái này là đồ cổ, dính đất sét tùm lum, mỗi vị Phật nó tính một trăm ngàn nên mấy chục vị mới ra giá ba triệu hả sư phụ ?

Lúc này tôi vẫn đứng im cạnh sư ông, mấy cô lật tượng Phật tới lui rồi từ từ rã nhóm lấy xe ra về. Sư ông quay qua nói tôi:

- Dị nghị cho đã, chẳng giải quyết được gì, rồi giờ không có ai rửa tượng Phật cho tôi, để hai bức tượng dính đất sét như vậy.

Tôi nghe vậy hiểu ý sư ông, kêu nhóc cư sĩ đi theo chạy xuống bếp lấy thau nước và xin cây cọ sạch để rửa tượng. Trong lúc rửa, sư ông nói:

- Cái này nó làm bộ lấy đất sét trét lên, rồi nói là mới đào, chứ đồ cổ gì. Tượng Phật đẹp thì mua thôi, chê mắc rẻ, dị nghị làm gì rồi bỏ đi hết.

Lúc này có vài cô Phật tử vào xá chào sư ông trong lúc tôi đang kì cọ tượng Phật. Sư ông chỉ tay vô thau nước:

- Nè, vô lấy cái chai hứng nước này về rồi uống, nước này tắm Phật rồi linh lắm.

Sư ông cười, mấy cô cũng cười. Có một cô đạp hoài mà xe không nổ máy, sư ông nói:

- Tại không chịu lau tượng Phật, nên xe chạy không được đó.

Sư ông cười. Lúc này thầy trụ trì về, sư ông ghé tai tui nói là cứ nói là mua ba chục triệu để coi thầy nói gì. Thầy và quý thầy chào sư ông, sư ông khoe mới mua hai bức tượng ba chục triệu của người ta nói mới đào được. Thầy trụ trì cũng nghĩ sư ông bị gạt, nên cầm bức tượng lên xem. Sư ông nhìn một hồi rồi cười:

- Mua có sáu triệu thôi. Mua rồi để trên kệ, để có Phật mà nhìn. Ai gạt hay xấu gì đó thì kệ, tôi tin ông Phật này thật nên mua là được rồi.

Lúc sau, sư ông kêu một thầy lại rồi tặng cho một bức tượng, nói cho về có Phật mà thờ.

* Bàn: Trong đường tu, không phải mình có đông Phật tử, có nhiều người hỗ trợ là hạnh phúc nhất, mà có phước được gần gũi với những vị cao niên thạc đức mới là hạnh phúc nhất. Thời nay, mình chỉ cần có hơi giọng tụng kinh một chút, có tài ăn nói một chút là được nhiều người theo rồi. Nhưng nhiều khi những cái mình nói, mình tụng đó nhưng mình không có làm, toàn là sáo ngữ, nghĩa là lời nói không đi đôi với việc làm. Được gần gũi với sư ông và những bậc tôn túc, mình học được rất nhiều từ thân giáo lẫn khẩu giáo của quý ngài. Từ việc nhỏ nhặt nhất, ai xá chào mình, sư ông cũng đều xá chào lại để không tổn đức. Thông thường mình không để ý những cái vi tế như thế, rồi huân tập cho mình cái cống cao, ngã mạn, làm thầy rồi nên phải hơn người các thứ.

Thiết nghĩ, từng lời nói của sư ông nghe kĩ, ngẫm sâu giúp mình học nhiều điều. Chúng ta thường thích bàn, thích dị nghị chuyện người khác, nhưng bản thân mình lại chưa bao giờ đứng ra giải quyết được việc gì cho họ. Bản thân chúng ta có xu hướng thích thị phi, thích bàn tán chuyện của người, mặc dù việc mình thậm chí chưa rốt ráo vào đâu. Rồi đến việc kêu mọi người lấy chai hứng nước về uống. Bản thân mình mê tín, nghĩ nước tắm Phật là linh thiêng, sao ở đây cũng là nước tắm Phật đầy đất sét mà không ai chịu lấy về uống ? Chúng ta phải quán chiếu rõ điều này.

Bản thân sư ông biết rõ đó là tượng mới, là do người bán trét đất sét lên để lừa mình nói là đồ cổ mới đào, nhưng sư ông vẫn mua, với lý do đơn giản là "tui tin ông Phật này là thật" và "để trên kệ có Phật mà nhìn". Ngay điểm này mà cái thấy của mình đã thua sư ông rất xa rồi. Mình có cái thấy rằng có chất Phật bên trong tượng Phật chưa ? Hay là cũng có đó, nhưng còn phân biệt, chê mắc rẻ, dị nghị nhưng không giải quyết được gì. Ở cái bậc của sư ông, là không chấp vào cái gì rồi, không có như mình còn so đo, toan tính đủ thứ, thậm chí biết bức tượng ba triệu cũng nói "có đổ cát bên trong". Sư ông phá chấp ngay chỗ đó, "thì lấy cái gì nạy cái đế đổ hết cát ra". Mình có đổ hết được những phiền não, cấu uế ra khỏi thân tâm mình như sư ông chưa ? Bức tượng Phật chính là chúng ta, đất cát là phiền não trong ta. Nếu ta biết bên trong mình có phiền não mà không chịu đổ hết ra, thì mình còn dở lắm.


- Giới tử Thích Thiên Đức

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8118)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8194)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5282)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37562)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6274)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6232)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5848)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5733)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 6000)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5528)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]