Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Đức Sâu Dày Giác Linh HT Thích Đức Niệm

23/10/201713:11(Xem: 9626)
Niệm Đức Sâu Dày Giác Linh HT Thích Đức Niệm
HT Thich Duc Niem (1953-2017) (69)
NIỆM ĐỨC SÂU DÀY
       Ngưỡng bạch Giác Linh Hòa Thượng Thích thượng Đức hạ Niệm !


Bao lần trà đạo tâm tình

Giã từ cõi mộng, một mình ra đi

Mai này trở lại Hoa Kỳ

Còn đâu hình bóng từ bi thuở nào?


Trong cuộc sống, có những người dù chỉ gặp thoáng qua một hoặc vài lần lại có thể gây cho chúng ta ấn tượng tốt đẹp, sâu đậm, những chuyển biến tích cực và khi nhắc đến người đó, chúng ta có cảm giác dễ chịu, yêu thương, quý mến ngập tràn. Cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm là một mẫu người như vậy. Tôi có phước duyên sinh hoạt chung với Hòa Thượng trải qua 2 Trường Hạ trong mùa hè vừa qua – 2017, tại Chùa Quang Minh – Chicago – Hòa Thượng với vai trò là Thiền Chủ và tại Tu Viện Kim Cang – Atlanta - Hòa Thượng với vai trò Phó Thiền Chủ. Chừng ấy thôi, tôi cũng cảm thấy vừa đủ để học hỏi thẩm thấu những phẩm hạnh giá trị cao quý lan tỏa từ nơi Thân Giáo, Khẩu Giáo của Người. Mới từ Hoa Kỳ về Việt Nam Phật sự được vài tuần lễ, bao kỷ niệm ân tình nơi ấy vẫn còn hiện rõ trong tôi mồn một, tôi thật bất ngờ khi hay tin Hòa Thượng, một người đầy niềm hoan hỷ, năng lượng và năng động lại vừa viên tịch khi chưa đến tuổi “thất thập cổ lai hy” (70). Trong niềm xúc động ngậm ngùi này, tôi xin ghi vài dòng để kính tưởng Giác Linh.

Tôi gặp Hòa Thượng ở Trường Hạ Chùa Quang Minh, Chicago. Hòa Thượng rất bình dị, hài hòa, khiêm tốn, luôn quan tâm lắng nghe người khác. Tôi ấn tượng với lời đạo từ của Hòa Thượng đối với mỗi đương sự khi tác bạch rất hợp tình, hợp lý, hợp với mỗi hoàn cảnh, trường hợp. Hòa Thượng luôn nêu gương trong việc thực hành nghiêm túc, đầy đủ và đúng giờ với mọi thời Khóa sinh hoạt trong mùa An Cư như : Tụng Kinh, ngồi Thiền, Trai Đường. Để cho thời Tụng Niệm thêm trang nghiêm, phong phú và nhất tâm, Hòa Thượng đích thân đánh trống cho nhạc Lễ tán tụng trong mỗi thời Công Phu. Tôi có cảm giác như một vị đại tướng ngày xưa đích thân đánh trống trận đốc thúc toàn binh, cũng vậy, Hòa Thượng tạo nên một niềm hứng khởi cho đại chúng tu tập, vượt qua những giây phút buông lung, hôn trầm ( ngủ gục), những Tâm Ma gai góc dai dẳng ẩn hiện bên trong mỗi hành giả. Với tư cách là Thư Ký của Trường Hạ Quang Minh, Chicago và người phụ trách chính cho thời Thảo Luận Chư Tăng tại Trường Hạ Kim Cang, Atlanta, tôi rất là an tâm với sự hỗ trợ lặng lẽ của Hòa Thượng bằng chính sự hiện diện quý giá của Người – chăm chú lắng nghe và ghi chép. Hòa Thượng thể hiện ý nghĩa câu :


 Sa Di thuyết Pháp Sa Môn thính

Bất tại niên cao tại tánh linh

( Sa Di thuyết Pháp, Sa Môn lắng nghe

Không phải vì tuổi cao mà là vì căn tánh của mỗi người)

 

Nghĩa là : ai cũng có điểm hay của họ, cho dù họ nhỏ hơn mình về tuổi tác, chức vụ, vai trò,… chúng ta cũng nên lắng nghe họ chăm chú để có thể rút kinh nghiệm cho mình và cho tập thể chung.

ht thich duc niem-7

Hòa Thượng là người rất hài hòa với Tăng chúng, dường như ở nơi Hòa Thượng không có khoảng cách của tuổi tác và thế hệ. Hòa Thượng luôn mỉm cười rất tươi và tham gia trà đàm, tham gia các môn thể thao cùng với Tăng trẻ, đó cũng là phương pháp phòng bệnh mang đến sức sống tươi khỏe, hoạt bát và vui với nhau, chan hòa tình huynh đệ.

Có một buổi sáng Bố Tát tại đàn tràng an cư Tu Viện Kim Cang, Atlanta khiến tôi giật mình nhớ mãi. Tôi vẫn nhiều lần thường nói là : Tại sao Bố Tát chỉ còn là hình thức tụng lược về giới luật mà thiếu tinh thần thẳng thắn góp ý soi sáng cho nhau – chỉ trừ một vài Chùa thuộc trường phái Thiền Trúc Lâm đang làm. Thế nhưng Bố Tát trước khi mãn hạ tại Tu Viện Kim Cang, Atlanta lại khác. Lúc đó, chư Tăng ngồi vòng tròn bên tách trà để thưa thỉnh trình bày trước đại chúng về những sơ suất, tội lỗi của mình cũng như nêu lên những điểm : thấy, nghe, nghi về những nhược điểm, vi phạm giới luật, thanh quy, pháp bất thiện nơi người khác. Hòa Thượng kêu gọi mọi người soi sáng cho nhau và chính Hòa Thượng sám hối trước đại chúng về một buổi Thảo Luận Phật Pháp của chư Tăng do tôi phụ trách mà Ngài lo việc khiêng cây cảnh và súc hồ nước lại quên đi, hơn nữa những vị Đại Đức khác cùng vào phụ làm với Hòa Thượng mà không tham gia khiến cho lớp học hôm đó vắng đi, thiếu sinh khí. Đó là biểu hiện Bi – Trí – Dũng của một bậc Đại Nhân, tàm quý và dám mạnh dạn trình bày khuyết điểm lỗi lầm mình trước đại chúng, cho dù xuất phát từ tâm thiện là : làm công quả cho chùa nhưng sai thời khóa. Sau đó, tôi và nhiều người noi gương Hòa Thượng trình bày những khiếm khuyết của mình cầu mong đại chúng liễu tri, cảm thông và soi sáng cho. Hòa Thượng góp phần bồi đắp cho một Tăng Đoàn hòa hợp thanh tịnh sống với tinh thần Lục Hòa với kinh nghiệm quản chúng từ thời tu học trước kia ở các tự viện tại Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Trong bối cảnh sinh hoạt Phật Giáo tại Hoa Kỳ, đại đa số tự viện theo tính cách : “nhất Tăng nhất Tự” ( mỗi Tăng mỗi chùa) thì Hòa Thượng góp phần hàn gắn lại, tạo mối dây liên hệ Tăng Đoàn, nhắc nhở mọi người ý nghĩa về “tự lực và tha lực”, “đức chúng như hải” và :

 

 Hổ ly sơn hổ bại

Tăng ly chúng Tăng tàn

để mọi tu sỹ ý thức rõ ràng hơn về trách nhiêm đối với tu tập Giới – Định – Tuệ và giải thoát mỗi ngày, thể hiện vai trò Hoằng Pháp của mỗi thành viên và Tăng Đoàn nơi Hải Ngoại. Hòa Thượng còn để lại những lời dạy rành rành thông qua lời phát biểu ý nghĩa An Cư Kiết Hạ khi được phỏng vấn tại Chánh Điện Chùa Quang Minh, Chicago và vai trò của Học và Tu khi được thỉnh phát biểu trong buổi cuối Thảo Luận Phật Pháp và đêm Thiền Trà tại Tu Viện Kim Cang, Atlanta. Những lời dạy của Hòa Thượng không văn chương hoa mỹ, mộc mạc giản dị nhưng rất sâu sắc thực tiễn, dễ nhớ, dễ hiểu để đưa vào thực hành và mãi còn in sâu trong tâm khảm chúng tôi.

Hòa Thượng khuyến tấn tôi năm tới (2018) cố gắng sắp xếp để tiếp tục đến với đạo tràng An Cư Kim Cang – Atlanta chia sẻ nhiều đề tài Phật Pháp lợi lạc hơn nữa. Lời hứa vâng thuận với Hòa Thượng vẫn còn đó mà nay Người không còn nữa để hạnh ngộ trùng phùng. Sự ra đi của Hòa Thượng không những là một tổn thất lớn lao đối với tứ chúng Chùa Ưu Đàm, Marina Bắc Cali, Phật Giáo tại Hoa Kỳ nói riêng và Phật Giáo Việt Nam trên khắp thế giới nói chung. Chúng ta thật khó tìm được một vị Cao Tăng Thạc Đức như vậy, có nhiều kinh nghiệm sinh hoạt Thiền Môn, sống hài hòa, với tâm Từ Bi, không phân biệt “nhân – ngã – bỉ - thử” luôn khuyến tấn tạo niềm cảm hứng cho những người xung quanh được như Ngài. Điều này khiến tôi nhớ đến một câu chuyện : có một con chim sẻ bị trúng tên, hoảng sợ bay đến nép vào Ngài Xá Lợi Phất nhưng chim vẫn còn run rẫy sợ sệt. Sau đó, chim lại bay đến luồn mình vào tay áo của Đức Phật. Ở đây chim thấy an toàn và không hề run sợ nữa. Được hỏi về nguyên nhân của hiện tượng, Đức Phật dạy: Nơi Xá Lợi Phất chủng tử sát sanh tuy đã tận diệt, nhưng chưa sạch được tập khí vi tế. Cũng vậy, những ai có duyên gần gũi Hòa Thượng và đối trước từ tâm và bao dung của Hòa Thượng mới có cảm giác hoàn toàn thư giãn, dễ chịu và có niềm tin tưởng sâu sắc về Đạo về Đời về sự thiết lập nên Tịnh Độ Nhân Gian, thế giới Chân – Thiện – Mỹ.

HT Thich Duc Niem (8)


Kính bạch Hòa Thượng! Vậy là con không còn thể gặp Người với thân thể hình hài ngũ uẩn nữa, nhưng những gì Người đã chỉ dạy, ân cần nhắc nhở vẫn luôn thấm đượm sống mãi trong con. Con vẫn luôn còn thấy phảng phất lung linh hình bóng thân thương và nụ cười của Người. Chúng con còn có thể đòi hỏi gì hơn nữa nơi Hòa Thượng? Hơn 65 năm nơi trần thế và 40 Hạ Lạp, Hòa Thượng có công đức cảm hóa lớn lao để lại phước lợi hà sa. Gương thị hiện của Người vậy là vừa đủ : để nhắc nhở ba cõi không an như là lò lửa, Vô thường lão bệnh không kỳ hẹn đối với kiếp người, mỗi hành giả hãy tinh tấn tu tập để vượt thoát. Người đi đến khắp các đạo tràng không mệt mỏi để đánh trống Pháp, dựng cờ Pháp, kết nối thương yêu, xây dựng Tăng thân, chia sẻ tình huynh đệ. Tấm gương tinh cần Học Hỏi, Thực Hành và Hoằng Pháp của Người kể từ khi mới xuất gia ở Việt Nam cho đến ngày Người trút hơi thở cuối cùng là tấm gương lớn mãi mãi rạng soi. Kính xin tri ân sâu sắc về duyên tri ngộ và những gì Người đã mang lại, đã gửi gắm nơi chúng con. Con nguyện tu học và hoằng Pháp sao cho xứng đáng với tâm tình với những gì đã hứa với Hòa Thượng thuở sanh tiền, suốt hành trình trở về bảo sở. Hóa duyên của Người đã mãn, Tứ đại vay mượn phải trả về cát bụi….Người đã ra đi nhưng Người còn ở lại, Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương và chúng con mong mỏi cơ duyên được gặp Hoa Ưu Đàm tái hiện để Thầy – Trò, Huynh Đệ hàn huyên với cốc trà, nối lại tình xưa,…

 

Ưu Đàm một thuở ngát hương

Xa gần phảng phất, bốn phương đượm nhuần

Người về trang trải ân tình

Người đi lặng lẽ một mình xa xăm

Cảm ơn Người đã hiện thân

Cảm ơn tri ngộ những lần bên nhau

Nhớ Người mãi đến ngàn sau

Người là sao sáng, giữa trời trong xanh….

 

Nam mô tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế, Ưu Đàm đường thượng, húy thượng Nguyên hạ Sỹ, tự Đức Niệm, hiệu Chơn Đức Niệm Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám

 

Chùa Giác Ngộ, Saigon, ngày 22/10/2017

Khể Thủ

Hậu Học : Thích Đồng Trí

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8109)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4925)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37269)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6157)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6116)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5757)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5646)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5926)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5461)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8777)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]