tâm cầu học đạo, chí xuất trần ươm mầm giải thoát.
Năm 20 tuổi Thầy từ Bắc vào Nam
Ngài phát nguyện quy y đầu Phật,
Đức tôn sư Bích Lâm ban Pháp hiệu Trí Tâm
Rồi đến độ nhân duyên hội đủ,
Tình Thầy Trò khế hợp cơ duyên,
Trong sắc thắm y vàng giải thoát,
Quyết chí xuất trần,
Thực hành phạm hạnh,
Năm một chín năm bảy (1957),
Ngài dọn lòng thụ giới Tỳ Kheo
Tầm cầu học đạo
Căn lành thiện trí uyên nguyên,
Thật hành theo hạnh xuất trần thượng sĩ
Ba y một bát làm phương giáo hóa,
Quả thật:
Bậc hiền nhân đã dự vào dòng sử Phật,
Như Hạc vàng cất cánh nhàn du”.
Đạo vàng một thưở nở trăm hoa,
Kế tiếp truyền thừa,
Phụng mệnh Tổ sư truyền trì Tổ Đạo,
Làm cho Tăng đoàn hòa hợp,
Pháp tông môn tăng huy
Xứ Nha Trang, đại trùng tu ngôi Tổ Đình
Đất Phước Đồng khai sơn “Nghĩa Sơn tự”
Đạo vàng xán lạng,
Tứ chúng đồng tu,
Lục hòa cộng trụ.
Đi hành đạo khắp nơi nơi xứ xứ,
Độ chúng nhân bảy mươi vị xuất gia
Hơn một nữa miền Trung đất Việt,
Giáo pháp hoằng truyền,
Chúng sanh an lạc,
Đạo thể vuông tròn,
Tâm hồn vô ngã,
Từ bi hỷ xả,
Nhiếp hóa quần sanh,
Thể nhập Chân như,
Ban rãi lòng từ,
Nhiếp Tăng độ chúng,
Lợi lạc vô cùng,
An lành trong Chánh pháp,
Giải thoát trong việc làm,
Vô vi tự tại.
Hỡi ôi!
Gương xưa biết mấy nhiêu đàng,
Bây giờ xem lại rõ ràng là đây
Ta-bà, tám mươi bốn năm tùy duyên hạnh ngộ,
Tròn 60 năm Hoằng pháp lợi sanh
Trưởng lão đã trùng hưng giáo pháp,
Lên ngôi vị Phó Pháp chủ cao minh,
Giáo âm, pháp vị xương minh,
Chốn chốn thắm nhuần cội đức.
Trổi gót Ta Bà, dìu dắt chúng,
Muôn loài tán thán đấng siêu nhân.
Thế nhưng tưởng trên bước đường thừa hành Phật tại nhân gian,
Thầy còn thác tích lâu hơn nữa để lợi lạc khắp quần sanh.
Giờ đây nơi cõi trần mây mù giăng phủ, Ngài đi về cõi Niết bàn vô tung bất diệt;
Hỡi ôi! một phút vô thường, huyễn thân tạm xả,
Ta bà hóa mãn pháp thân, tịnh thổ rụng hoa Ưu đàm,
Tuỳ duyên ứng hiện, đến đi vô ngại,
như cánh nhạn giữa trời không,
Thầy đã an nhiên thâu thần thị tịch, để lại cho đời tiếc nuối ngậm ngùi.
Ôi tấm gương đạo hạnh sáng ngời.
Kính bạch Giác Linh – Thầy khả kính,
Đài Giác-ngộ, Thế Tôn thuyết giáo,
Cõi Ta-bà, Đức Thầy giáo hóa độ nhân sanh,
Cõi an lành:
“Sắc tướng vốn không, mượn cảnh huyễn độ người như huyễn.
Tử sinh nào có, nương thuyền từ độ kẻ trong mê”.
Thiền tọa gốc cây hàng huệ sĩ,
Chôn mình trong đất bậc chân nhân.
Một cành mà nở trăm hoa,
Bóng y bát đẹp quê ta tự rày,
Chơn truyền tổ đức là đây,
Bóng xưa với lại hình này dặm không”.
Thành kính đảnh Giác linh Cố Đại lão Hoà thượng Tôn sư, Phó Pháp chủ thể nhập vô sinh, hội nhập Ta Bà, phổ độ quần sinh.
Nam mô Nghĩa Phương đường thượng, Khai sơn Nghĩa Sơn tự. Từ Lâm Tế Chánh Tông tứ thập nhất thế húy Không Thành tự Trí Tâm hiệu Huệ Minh hòa thượng Bổn sư Giác linh thùy từ chứng giám.
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924).
Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần).
Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.