Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kính tiếc một bậc Thầy tài hoa

18/11/201619:41(Xem: 6501)
Kính tiếc một bậc Thầy tài hoa

Kính tiếc một bậc Thầy tài hoa

 “Thương mây thơ thẩn về đâu
Thương trăng hiu quạnh giữa bầu hư không...”.

Đó là hai câu đầu của bài thơ “Mười thương” do Hòa thượng cảm tác, mà người viết đã được nghe lần đầu cách đây hơn hai mươi năm trong một lần hầu chuyện cùng ngài. Hôm nay, bỗng dưng hay tin Hòa thượng đã vừa viên tịch tại tổ đình Tường Vân, thành phố Huế, một nỗi buồn dường như vô tận đã bất chợt hiện về trong ký ức cùng với hình ảnh của một bậc Thầy tài hoa...

Khoảng thập niên 1990, chúng tôi thường đến thiền viện Vạn Hạnh để nghiên cứu và sao chép tài liệu, nhờ vậy có được cơ duyên nhiều lần tiếp xúc với Hòa thượng tại thiền thất của ngài. Mỗi lần được hầu chuyện với ngài, tâm trí càng thêm sáng tỏ. Hòa thượng là một trong những bậc Thầy có những đức tính rất đặc biệt.


HT Thich Chon Thien 2
Trưởng lão HT.Thích Chơn Thiện, Phó Pháp chủ HĐCM, 
Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS GHPGVN 
- Ảnh tư liệu ĐĐ.Hương Yên cung cấp

Nét chữ của sự cần mẫn...

Ấn tượng đầu tiên về Hòa thượng đó là khi ngài tặng cho chúng tôi bản thảo viết tay luận án tiến sĩ của ngài. Những ai có cơ duyên đọc bản luận án viết tay (bản tiếng Anh và bản dịch tiếng Việt) có lẽ sẽ nhận ra ngay đức tính cần mẫn và kiên trì một cách rất đặc biệt nơi ngài. Trong các bản này, Hòa thượng đã tận tụy nghiên cứu, cẩn thận ghi chép tỉ mỉ những văn bản kinh điển cổ bằng tiếng Pali, đặc biệt là Kinh tạng Nikàya. 

Sự ghi chép của Hòa thượng cẩn thận đến độ người đọc khó có thể tìm thấy bất kỳ một sự chỉnh sửa nào trong suốt hơn 300 trang viết tay đồng bộ. Nhưng đối với ngài, đấy là một công việc bình thường, cho dù lịch trình Phật sự có bận rộn như thế nào. Khi được hỏi tại sao Hòa thượng phải viết tay như thế, ngài tâm sự rằng, các luận án phải được thông qua trước khi được cho đánh máy. 

Chính vì vậy, ngài rất hoan hỷ chép tay, và nhân tiện chép luôn bản dịch tiếng Việt do chính ngài dịch. Điều đáng nói ở đây là khi chiêm ngưỡng chữ viết tay của ngài, người chiêm ngưỡng nhận thấy nơi những nét chữ khiêm tốn và bình dị đó phảng phất đâu đấy một sự định tĩnh, nhất tâm, rất đẹp và rất vững chãi. Đó chính là cái ấn tượng ban đầu mà hầu như ở thời điểm đó (trước khi luận án được phát hành), các bậc cao tăng cũng như các giáo sư học giả nổi tiếng đương thời ai cũng khen ngợi và tán dương sự cần mẫn của ngài thông qua những nét chữ tuyệt vời.

Xiển dương tính nhất quán trong tư tưởng Phật học...

Trong những tác phẩm, dịch phẩm và những công trình nghiên cứu của Hòa thượng, đặc biệt là cuốn “Phật học khái luận”, đây một quyển sách giáo khoa Phật học quan trọng đã được liên tục tái bản trong suốt hơn 30 năm qua. Trong Lời giới thiệu quyển sách, cố Đại lão Hoà thượng Thích Thiện Siêu đã đánh giá như sau:

“Căn cứ trên các kinh Nikàya và A-hàm với một phần ý nghĩa rút ra từ kinh điển Bắc truyền, Thượng tọa đã trình bày Phật học một cách mạch lạc, rõ ràng, nhằm giới thiệu được nội dung cơ bản của Phật-học, đồng thời cũng gợi lên những đường hướng tư duy sâu sắc và đúng đắn để có thể phù hợp với nhiều đối tượng độc giả... Tôi nghĩ rằng cuốn Phật học khái luận này phản ảnh một quá trình tu học nghiêm túc, một niềm tin tưởng sâu đậm đối với Phật giáo và một tấm lòng tha thiết khuyến tu đối với hết thảy mọi người...”.

Đọc hết các chương về tư tưởng Phật giáo từ khởi nguyên đến phát triển, bạn đọc sẽ thấy rõ tâm huyết của ngài. Đấy chính là những nỗ lực vượt qua mọi dị biệt, xiển dương tính nhất quán trong tư tưởng kinh điển và mối liên hệ triết học giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển. Khái niệm “Tiểu thừa” và “Đại thừa”, trong quan điểm của ngài chỉ là một cách diễn đạt về lịch sử phát triển mang tính cách lý thuyết. 

Bạn đọc có thể nhận thấy điều này qua những giải thích, chứng minh của ngài về sự “nhất quán” giữa giáo lý “Năm uẩn là Vô ngã” của Phật giáo Nguyên thủy với giáo thuyết về “Tánh Không” của Đại thừa. Nhưng trên hết, đằng sau những phân tích và giải thuyết của ngài, bạn đọc có thể cảm nhận được ngay niềm khát vọng thống thiết nhất của con người, đấy chính là sự tìm cầu chân lý và hạnh phúc! Chính vì vậy, là một nhà Phật học tinh thông, trong quan điểm của ngài, dù ngôn ngữ hay cách tiếp cận có khác biệt nhưng nhu cầu về chân lý, về sự chứng ngộ chân lý, thì không hề khác biệt. Vấn đề là, tùy vào hoàn cảnh khác nhau mà Phật giáo cần phải có những uyển chuyển, thích ứng phù hợp.

thay khaithien1.jpg
Thủ bút của HT.Thích Chơn Thiện 
(ảnh do Quảng Điền chụp lại, di cảo do ĐĐ.Thích Hương Yên cung cấp)


Bậc Thầy tinh thông cả Nam tạng và Bắc tạng...

Những ai đã một lần tham dự các thời pháp hay các buổi thuyết giảng của Hòa thượng sẽ ít nhiều cảm nhận được tấm lòng nhiệt huyết và từ tâm bao la của ngài. Khi trình bày một vấn đề, ngài thường đi rất sâu và đi sâu hơn những gì mong đợi của hàng thính giả. Sự trình bày của ngài, ngoài sự uyên bác, quảng học đa văn, các luận cứ luôn được dẫn chứng theo các nguyên tác, kinh điển. Nhờ vậy mà niềm tin của thính chúng được tăng trưởng. Có thể nói rằng, dù không phải là người trực tiếp phiên dịch, nhưng Hòa thượng là một trong những bậc cao tăng uyên thâm cả hai hệ thống Nam tạng và Bắc tạng. 

Đọc các tác phẩm của ngài, người đọc thường có cơ duyên để lĩnh hội sự giao thoa tư tưởng của cả hai hệ thống kinh văn Phật giáo (Nam truyền và Bắc truyền) được trích dẫn và giới thiệu một cách rất đầy đủ. Đối với các thế hệ Tăng Ni sinh hậu học, tác phẩm của Hòa thượng là một nguồn cảm hứng thiêng liêng, là động lực mãnh liệt, khuyến tấn hàng hậu học mạnh dạn đi sâu hơn vào kho tàng tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy. 

Và ở đó, chính trong kho tàng Nguyên thủy, hành giả sẽ có thể nghe được tiếng nói diệu âm của Đại thừa, cho dù thời đại có cách nhau 500 năm hay một ngàn năm. Đây quả thật là một nét đặc trưng hiếm có trong các tác phẩm nghiên cứu triết học Phật giáo trong thời đại của chúng ta.


Bây giờ bỗng dưng...

Sau bao năm tháng tận tụy làm Phật sự, ở tuổi 75, với ngài, thật sự không quá già, nhưng Hòa thượng đã trở về cõi vô tung bất diệt. Hàng hậu học ở lại, bồi hồi, ngậm ngùi kính nhớ Hòa thượng; nhớ lại những năm tháng trước đây, nhớ lại những lời dạy chân thành và giáo huấn cao thượng, nhớ lại những ánh sáng nội tại lóe lên từ mặt đất tinh khôi... Và bây giờ, bỗng dưng ngài đã trở về cảnh giới chân nguyên, nơi “sông vẫn là sông, núi vẫn là núi”.

Cúi đầu đảnh lễ Giác linh cố Trưởng lão Hòa thượng.

Kính mong ngài sớm trở lại cõi Ta-bà để hoằng hóa độ sinh.


Khải Thiên

(Tu viện Cát Trắng, Florida, Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 12732)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
10/04/2013(Xem: 6577)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em.
10/04/2013(Xem: 9908)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Hữu Độ, sinh ngày 01 tháng 11 năm Nhâm Thân (nhằm ngày 28/11/1932) tại thôn Thuận Hòa, xã Hương Phong, huyện Thuận Hóa, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Hữu Oai, thân mẫu là cụ bà Đặng Thị Kiếm. Hòa Thượng là người con thứ 5 trong gia đình có 6 anh em.
10/04/2013(Xem: 8488)
Vào lúc 14 giờ ngày 20-10-2011, Thiền viện Vạn Hạnh, TP. Sài Gòn đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 94 của Trưởng lão Hòa thượng Viện chủ và công chiếu bộ phim “Cuộc đời và Đạo nghiệp Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu” do Thiền viện phối hợp cùng Công ty Phim - Ảnh và Tư liệu Sen Việt thực hiện.
10/04/2013(Xem: 10185)
Đại đức thế danh Ngô Văn Quý, pháp danh Trừng Thông, pháp tự Giác Tấn, pháp hiệu Chơn Khánh. Sinh ngày 02/01/1953 (Nhâm Thìn) tại thôn Phú Vinh – Vĩnh Thạnh – Tp Nha Trang, trong một gia đình có truyền thống kính tin tu Phật. Thân phụ tên Ngô Văn Hường pháp danh Thanh Ân thân mẫu tên Nguyễn Thị Môn pháp danh Trừng Xuân.
10/04/2013(Xem: 8097)
Ni Trưởng Thích Nữ Hạnh Viên Tọa Chủ Chùa Linh Sơn, phường Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Ni Trưởng, thế danh BÙI THỊ HẢI, húy thượng TÂM hạ ĐĂNG. Tự HẠNH VIÊN, hiệu CHƠN NHƯ, đời thứ 43 dòng Lâm Tế.
10/04/2013(Xem: 9263)
Ni Trưởng họ Hứa húy Thị Hai, sinh ngày 07 / 07 năm Ất Sửu (1925 ), tại làng Tân Nhựt, tỉnh Chợ Lớn – Sài Gòn. Thân phụ là ông Hứa Khắc Lợi; Thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Năng; Gia đình có 02 người con, Ni Trưởng là chị cả và người em trai là Hứa Khắc Tuấn.
10/04/2013(Xem: 8104)
Ni trưởng huý thượng Thị hạ Mậu, tự Thông Huyền, thế danh Đào Thông Thoại, sinh ngày 17 tháng 11 năm Ất Sửu (1925). Tại thôn Xuân Quang, xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Sinh trưởng trong một gia đình trí thức Nho giáo nhiều đời thâm tín đạo Phật, thân phụ là cụ ông Đào Đãi, pháp danh Thị Thiện, tự Giản; thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Chư, pháp danh Thị Hiền. Hai cụ đều là Phật tử thuần thành, hết lòng tôn kính và hộ trì Phật pháp. Ni trưởng là con thứ 6 trong gia đình có mười anh chị em. Vốn sẵn có thiện duyên từ bao đời với Phật pháp, nên từ thời thơ ấu đã chuyên tâm học đạo và sớm quy y Tam Bảo với bổn sư huý thượng Như hạ Từ, pháp hiệu Tâm Đạt tại chùa Thiên Bình, thôn Trung Lý, xã Nhơn Phong , huyện An Nhơn , tỉnh Bình Định.
10/04/2013(Xem: 7139)
Sư Cô Thích Nữ Liên Thi, tên đời Hồ Thị Kim Cúc, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1969 tại Cam Ranh, Khánh Hòa, xuất gia ngày 18 tháng 5 năm 1990 tại Tịnh Xá Vân Sơn thuộc Xã Lương Sơn, Tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Sư Cô đến Hoa kỳ ngày 26 tháng 5 năm 2008, mất tích ngày 23 tháng 4 năm 2010 và Phật tử đã tìm ra thi thể của Sư Cô năm tháng sau khi mất tích, ở sân sau của Tịnh Xá Từ Quang thành phố Midway City, tiểu bang California vào ngày thứ năm 23 tháng 9 năm 2010, nơi mà Sư Cô đã sinh hoạt trong suốt thời gian từ ngày đến Hoa Kỳ cho đến ngày mất tích. Sư Cô hưởng dương 42 tuổi đời, 20 tuổi đạo.
10/04/2013(Xem: 9673)
GS Phạm Công Thiện: Ra đi An Lạc Trong Thiền Định; Lễ Cầu Siêu Tại Chùa Viên Thông, Bellflower, Vào Chủ Nhật, 13-3 Nhà Thơ, Giáo Sư Phạm Công Thiện tại Tòa Soạn Việt Báo. (Hình Việt Báo, chụp vào tháng 11 năm 2009.)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]