Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Sa Di Ni Diệu Niệm

12/06/201618:23(Xem: 6462)
Tiểu Sử Sa Di Ni Diệu Niệm
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ
CỐ SA DI NI: PHÁP DANH DIỆU NIỆM
THẾ DANH: NGUYỄN THỊ NỔI
Cụ bà: Thế danh là Nguyễn Thị Nổi. Pháp danh Diệu Niệm.
Sanh ngày 6/1 năm Ất sửu 1925 tại vùng 5 thuộc tỉnh Quảng Ngãi Việt Nam.


Cụ có tất cả 6 người con: 3 trai và 3 gái. Tất cả đều có gia đình, duy chỉ có người con gái út thì đã xuất gia tu học từ nhỏ và hiện nay là Ni sư Như Tuyết – Trụ trì Chùa Diệu Âm vùng St.Albans, tiểu bang Victoria- Úc châu.

Vào những năm thập niên 50, 60 đất nước chiến tranh loạn lạc, nên gia đình đã di cư vào thành phố Nha trang sinh sống và lập nghiệp tại đó. Mãi đến năm 1976, cụ Ông qua đời, lúc đó Cụ Bà được 52 tuổi. Trong thời gian đó chỉ có 3 người con lớn đã lập gia đình, 2 người con trai kế vẫn còn ở chung với cụ. Cuộc sống khó khăn, cụ phải vất vả làm lụng lo toan mọi việc để nuôi con và giữ tròn đạo nghĩa phu thuê, vừa lo chăm sóc Mẹ chồng và lo cho các con yên bề gia thất. Thật đúng với câu: “Mẹ hiền, Dâu thảo”.

Đến năm 1986 tất cả những người con lần lượt vượt biên sang Úc. Sau khi những người con được định cư, ổn định cuộc sống thì mới lãnh cụ bà sang Úc đoàn tụ với con cháu.

Mãi đến năm 2002, Cụ mới bảo lãnh được người con út theo diện đoàn tụ người con cuối cùng. Đó là Ni sư Như Tuyết.

Đến năm 2005, Ni sư đã thành lập Chùa Diệu Âm và đã rước cụ về sống chung để tiện việc báo hiếu cũng như hướng dẫn cụ ăn chay niệm Phật hầu mong sớm được nhẹ nhàng an lạc ở tuổi xế chiều.

Đến năm 2006, hội đủ duyên lành cụ phát tâm xuất gia gieo duyên với Phật pháp, mặc dù lúc đó cụ đã ngoài 80. Tuy nhiên, cụ rất minh mẫn, sáng suốt, làm được những công việc nhẹ nhàng ở chùa và luôn luôn tinh tấn niệm Phật hành trì không xao lảng. Cụ đã hiểu được lời Phật dạy: “ Thân người khó được- Phật Pháp khó gặp- cũng như công đức xuất gia rất lớn. Người tu hạnh xuất gia một ngày bằng công đức tu tại gia một năm.” Vì thế vào ngày 19/2 năm Bính Tuất nhân Lễ Vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát được Hòa Thượng Chùa Thiên Đức làm lễ thế phát xuất gia cho cụ, đến cuối năm 2007 cụ được truyền giới Sa Di Ni dưới sự chứng minh của Hòa Thượng thượng Huyền hạ Tôn và nhị vị Ni trưởng: Ni trưởng Thích Nữ Chơn Đạo và Ni trưởng Thích Nữ Phước Trí cùng quý Chư Ni hội đủ Tam sư Thất chứng.

Đến 2009, cụ được thọ giới Bồ tát do chư Tôn Đức Tăng đến chứng minh và truyền pháp. Cũng từ đó, cụ ở tại Chùa Diệu Âm dốc lòng chí tâm công quả tu tập, tuy tuổi cao nhưng cụ luôn minh mẫn sáng suốt. Và rồi tuổi già sức yếu, nên thỉnh thoảng có vào viện khoảng 1 tuần rồi về, Bác sĩ có chuẩn đoán là nội tạng điều tốt, chỉ có bệnh già yếu thôi. Về Chùa con cháu cũng đã hết lòng chăm sóc cho cụ. Mãi cho đến những ngày gần đây Ni sư Như Tuyết đã nhận thấy sức khỏe yếu dần của cụ và Ni Sư đã thỉnh chư tôn đức Tăng Ni cùng quý Phật tử Ban Hộ niệm các chùa đã đến tụng kinh, niệm Phật trong 3 ngày. Đến 6 giờ sáng ngày thứ năm 9/6/2016 nhằm ngày mùng 5/5 năm Bính Thân cụ đã an nhiên tự tại về cõi Phật tại Chùa Diệu âm trong sự trợ niệm của chư tôn đức và quý Phật tử.


Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật


Sa Di Ni Bo Tat Gioi Thich Nu Dieu Niem

Cảm Niệm Mẫu Thân

Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch trên Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni.
Kính thưa tất cả thân bằng quyến thuộc, thân hữu gần xa

Vào giờ này sắp sữa tiễn đưa linh cữu của thân mẫu chúng con về nơi an nghĩ cuối cùng. Chúng con xin phép trên chư tôn Thiền đức cho chúng con vài phút giây để bày tỏ đôi lời tâm sự tri ân trước linh đài của thân mẫu chúng con.

Kính bạch Chơn linh thân mẫu!

Chúng con vẫn biết thân mẫu hiện giờ là người xuất gia theo Phật, lãnh thọ giới pháp thanh tịnh, theo đúng quy luật của nhà Phật. Chúng con phải gọi bằng Ni Cô. Nhưng chúng con xin bạch lên Chư Tôn đức cũng như chơn linh của thân mẫu cho phép chúng con được gọi bằng Mẹ

Tiếng gọi Mẹ thân thương, kính mến của ngày nào.

Ôi! Hơn 90 năm trên cõi đời. Ân tình sâu nặng chan chứa biết bao. Người Mẹ hiền đã suốt đời tận tụy, hy sinh tất cả vì con. Chúng con làm sao quên được sự hy sinh cao cả vô bờ bến của Mẹ, lúc nào Mẹ cũng lo lắng, đùm bọc chúng con.... cho dù đến ngày hôm nay, tất cả chúng con đều đã yên bề gia thất. Thế mà Mẹ vẫn chưa yên, vẫn còn lo như thuở chúng con còn nhỏ dại.

Thật đúng là: “Mẹ già hơn trăm tuổi
Vẫn thương con tám mươi”.

Chúng con không biết phải dùng ngôn từ nào để diễn tả cho hết tình Mẹ bao la vô bờ bến. Mặc dù chúng con vẫn biết tình cảm quyến luyến là sợi dây ràng buộc trong sanh tử, luân hồi. Nhưng hởi ôi! Gần một thế kỷ trôi qua, Mẹ con chung sống, đùm bọc đắng cay,chia sẽ ngọt bùi. Kể từ khi thân phụ qua đời, lúc đó Mẹ vẫn còn trẻ nhưng Mẹ vẫn ở vậy nuôi con, giữ trọn nghĩa tào khang, lo cho con cho cháu. Từ nơi quê nhà cực khổ, Mẹ cần kiệm chắc chiu dành dụm để lo cho chúng con vượt biên sang Úc. Mẹ chỉ mong sao các con các cháu có được cuộc sống yên bình, tự do hạnh phúc là Mẹ sung sướng an lòng. Tình thương của Mẹ thật bao la, thật vĩ đại. Dẫu nay Mẹ không còn nữa, nhưng tình mẫu tử thiêng liêng dạt dào của Mẹ vẫn luôn hiện hữu trong tim của chúng con.

Ngàn năm Mẹ vẫn còn đây
Ngàn năm tình Mẹ đong đầy trong con

Kính lạy Chơn linh Mẹ: chúng con không làm sao quên được tiếng nói dịu hiền cùng nụ cười hỷ xả của Mẹ.

Nhớ mới ngày nào, đầu xuân con cháu tựu về đông đầy, đứa thì chúc Nội, chúc Ngoại, chúc Cố sống lâu trăm tuổi, đứa chúc 120 tuổi, đứa thì 150 tuổi. Rồi Bà cháu cùng cười nói thân thiện vui vẻ, nhưng sau đó Mẹ bảo

“ không cần sống chi cho lâu, lẩn lịu thì khổ lắm, sống khỏe mạnh lo niệm Phật là tất nhất. Khi nào không còn sức thì Phật Di Đà rước về Tây Phương thế giới Cực Lạc sẽ được an vui đời đời.”

Rồi Mẹ lại dặn thêm, khi nào Mẹ mất thì các con, các cháu ăn chay cho Mẹ 49 ngày là tốt nhất, không được sát sanh, bày tiệc ăn uống vui chơi, phải lo tụng kinh niệm Phật cho Bà. Làm được như vậy là Bà vui rồi.

Nay chúng con, chúng cháu sẽ cố gắng y theo lời chỉ dạy của Mẹ. Và trong những năm tháng Mẹ con chung sống, ít nhiều gì chúng con cũng phạm những lỗi lầm làm cho Mẹ,cho Bà không vui. Giờ này, chúng con, chúng cháu phủ phục quỳ trước linh đài Mẹ, Bà để nói lên lời tạ tội sám hối. Cúi xin Mẹ, Bà từ bi hỷ xả cho chúng con. Và chúng con cũng không biết nói gì thêm nữa.
Lời cuối cùng, chúng con chỉ biết cầu nguyện mười phương Chư Phật tiếp rước Chơn linh Mẹ sớm vãng sanh về miền Tịnh cảnh.

Kính lạy Chơn linh Mẹ thùy từ chứng giám
Mẹ nay về cõi Tây Phương
Chúng con ở lại nhớ thương Mẹ hiền”.


Nam Mô Tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật tác đại chứng minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5414)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5856)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6884)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5856)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10240)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8267)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13396)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5601)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13381)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6385)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567