Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguyễn Minh Cần sống mãi

27/05/201608:06(Xem: 4450)
Nguyễn Minh Cần sống mãi

nguyen-minh-can-60
Nguyễn Minh Cần sống mãi

Ngô Nhân Dụng

Nguyễn Minh Cần sống như một dòng suối trong veo. Anh theo mẫu người nhà nho tráng sĩ những thế kỷ trước. Như Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân hai lần khởi nghĩa, hai lần bị quân Pháp bắt, thong dong dặn dò vợ con trước khi chịu tử hình. Như Giải Nguyên Nguyễn Cao khi bị bắt và được dụ hàng, đã khẳng khái từ chối rồi tự mổ bụng ném vào mặt quân giặc, nói: “Ruột gan tôi như thế này, ai cũng biết cả rồi!”

Năm 17 tuổi, Nguyễn Minh Cần đã tham dự cuộc Cách Mạng Tháng Tám giành độc lập ở Huế, quê hương ông. Năm sau ông đã vào đảng Cộng Sản vì tưởng đây là con đường duy nhất để cứu nước, làm tới ủy viên Thường Vụ Tỉnh Ủy Thừa Thiên. Rồi ra Bắc hoạt động ở ngoại thành Hà Nội, sau năm 1954 làm ủy viên Thường Vụ Thành Ủy Hà Nội, kiêm phó chủ tịch Ủy Ban Hành Chính thành phố. Trong khi ông đang học Trường Đảng Cao Cấp ở Moskva, Cộng Sản Việt Nam thanh trừng nội bộ bằng chiến dịch Chống Chủ Nghĩa Xét Lại. Năm 1964 Nguyễn Minh Cần ra khỏi đảng, xin tị nạn chính trị ở Liên Xô, làm nghề dạy học, phiên dịch và viết sách, có khi ký tên là Alikanov để qua mắt công an Việt Cộng. Ông và vợ là bà Inna Malkhanova đã tham dự các cuộc biểu tình vào Tháng Tám năm 1990, khi chế độ Cộng Sản Liên Xô đang sụp đổ. Ông thường kể trong đời mình đã dự hai lần “Cách Mạng Tháng Tám!” Từ năm 1990, ông tham gia tích cực vào cuộc vận động tự do dân chủ của người Việt Nam khắp thế giới. Ông tham dự các tập họp chính trị, viết sách viết báo cho đồng bào trong nước và hải ngoại đọc, lúc nào cũng lo gây dựng tình đoàn kết giữa những người cùng lý tưởng dân chủ tự do.

Nếu được gặp anh Nguyễn Minh Cần thì mình sẽ làm gì? Tôi mới tự hỏi. Mấy năm rồi tôi vẫn tính đi Nga thêm một chuyến; để có cơ hội được gặp anh Nguyễn Minh Cần. Gặp một lần nữa trước khi anh ra đi. Khi cùng đi với Lan Hương đến thăm anh ở Moskva lần chót, đã thấy anh rất yếu, sau đó lại có tin anh phải vào bệnh viện mấy lần. Mỗi lần ở nhà thương ra, anh lại viết thư ngay, báo tin anh vẫn khỏe để giúp mọi người bình tĩnh! Và anh bàn bạc ngay những vấn đề đất nước, xin mọi người phải chú ý theo dõi, loan báo tin tức và bày tỏ ý kiến công khai.

Con người Nguyễn Minh Cần chứa một tấm lòng nhiệt thành, tận tụy vì lý tưởng; một tâm hồn ngay thẳng, đĩnh đạc, bộc trực gần như nóng nảy. Anh giản dị, chân thành, lo lắng cho công việc chung, cho tất cả bạn bè anh em. Hỏi tới chuyện nào anh cũng sẵn sàng nói và anh biết rất nhiều; không thấy anh ngần ngại hay tỏ ra muốn giữ kín một điều gì bao giờ. Anh và chị Inna là những con người trong suốt.

Tôi chưa thấy anh chị nói nặng lời về một ai bao giờ, trừ hai nhân vật, với chị Inna là Stalin, với anh Cần là Hồ Chí Minh. Nhưng thực ra họ cũng không nói nặng lời. Họ chỉ kể lại những tội ác của các lãnh tụ Cộng Sản bằng giọng nói bình thản, khách quan, với những câu chuyện cụ thể, các con số, mà hai người đã để tâm nghiên cứu. Khi Vladimir lên cầm quyền được hai, ba năm anh Cần đã báo động với tôi rằng chế độ độc tài đang được tái lập, Putin sẽ là một “đại đế” mới! Khi tôi đề nghị anh viết một bài cho báo Người Việt về tình trạng này, anh đồng ý. Nhưng khi tôi ngỏ ý đưa trả tiền trước nhuận bút, anh gạt tay tôi rất mạnh, từ chối. Anh bảo khi nào viết, đăng rồi hãy trả tiền!

Lần đầu Lan Hương đưa bố con chúng tôi tới ở nhà anh chị tại Moskva trước đây hơn 20 năm, anh chị đã đưa tôi và Bão Phác đi thăm trang trại cũ của nhà văn Tolstoi, một thần tượng của chị. Anh dạy tôi trong tiếng Nga cái tên Tolstoi phải đọc chữ “o” vần đầu như chữ “a.” Cũng như Moskva vần đầu đọc “Mo” là “Ma,” tên cháu Lan Hương là Tonia cũng vậy. Anh chị cho biết vào cuối đời nhà văn đã khám phá ra giáo lý “hiện pháp lạc trú” (an trú trong hiện tại) của Phật Thích Ca; nhưng chắc không có duyên thực tập. Trên con đường hơn 300 cây số, đi mất 6, 7 giờ, xe taxi lâu lâu dừng lại. Có lúc tôi hỏi lý do, anh Cần lắc đầu, vừa cười vừa nhăn mặt: Bà ấy thấy mấy con chó hoang là phải cho chúng ăn. Đi đâu cũng mang theo bọc thức ăn cho chó! Nhìn ra, quả nhiên thấy chị Inna đang đứng giữa một bầy chó nhẩy nhót chờ đón quà! Chị Inna lập ra hội những người bảo vệ chó, đi đâu thấy chó hoang là chị đưa về nhà nuôi.

Sau khi tham ngôi nhà cũ, khu vườn mà hai ngôi mộ của Lev và Sophia Tolstoi, chúng tôi bước ra về trên con đường ra cổng trang trại, hai bên cây xanh che phủ. Anh Cần đi trước, chị Inna và tôi đi sau. Đang bước đi tôi trông thấy một con sâu róm đang bò ngang đường, lủi thủi một mình. Tôi đi chậm lại, chú ý bước qua không để vô tình giẫm chân lên con sâu. Nhưng bỗng chị Inna dừng lại. Chị cúi xuống, đưa hai ngón tay phải nhắc con sâu lên, để nó trên bàn tay trái. Rồi chị bưng con sâu đi chậm chậm sang một bên đường, cẩn thận đặt con sâu đi lạc trên một cành lá xanh. Xong, chị lại tiếp tục bước đi, nói tiếp câu chuyện đang nói dở.

Đó là cung cách trong cuộc sống của anh chị Inna Malkhanova và Nguyễn Minh Cần. Sau nửa thế kỷ sống bên nhau, hai người giống nhau trong tư tưởng, trong cách nói năng bằng tiếng Nga và tiếng Việt, trong cách cư xử với mọi người. Cách đây sáu, bảy năm, tôi tới Moskva muốn đến thăm anh chị, anh nhất định tới đón tôi tận khách sạn. Năm đó đã thấy anh phải chống gậy. Anh và chị đã quy y với Thầy Như Điển ở Đức, nhận pháp danh Thiện Mẫn và Thiện Xuân. Anh chị đã lập một thiền đường và một hội Phật học ở Moskva.

Tuổi già giọt lệ như sương. Nhưng sáng nay mở email ra đọc tin anh Nguyễn Minh Cần qua đời, bao nhiêu bạn bè và các em của anh không thể cầm được giọt lệ. Chị Quản Mỹ Lan ở Pháp viết: “Nay anh Nguyễn Minh Cần ra đi là một sự hụt hẫng, là nỗi mất mát kinh khủng nhất!” Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ ở New Zealand viết: “Nguyện cầu vong linh anh Nguyễn Minh Cần được an nhàn nơi cõi phước.”

Tôi đọc mấy thư anh chị em trao đổi tỏ lòng thương tiếc anh Nguyễn Minh Cần, nghẹn ngào đứng dậy đi ra ngoài đường, vừa đi vừa tự hỏi: Nếu năm ngoái, năm kia, được đến thăm anh Nguyễn Minh Cần và chị Inna thì mình sẽ làm gì nhỉ? Chắc cũng không làm một điều gì quan trọng. Chắc tôi chỉ ngồi uống trà với anh và chị Inna, nhìn nhau cảm thông trong hơi thở và nụ cười. Gặp anh chị, trò chuyện với anh chị, giống như được tắm gội trong một dòng suối ấm áp trong trẻo của hai con người đáng yêu và đáng kính trọng.

Tôi chợt nhớ câu thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê. Rồi đọc lại bài thơ Thanh Tâm Tuyền viết cho Quách Thoại: “Còn người thi sĩ đi vào miền đất lạ - không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.”

Chắc giờ này anh Nguyễn Minh Cần đang “được an nhàn nơi cõi phước” như Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ cầu nguyện. Anh sẽ được quên những chuyện trần gian, “không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.” Anh đã chứng kiến bao nhiêu cảnh khổ đau của đồng bào, của đất nước. Một lần cùng đi xe qua Đại lộ Arbat ở Moscow, anh Nguyễn Minh Cần chợt chỉ tay lên, nói với tôi: “Anh Văn Doãn đã tự tử từ lầu sáu ngôi nhà này.” Sau gần 40 năm, anh Cần vẫn chưa quên người đồng chí đã từng làm tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, từng quyết định tị nạn ở Nga với anh, và đã tuyệt vọng khi mất cả quê hương lẫn lý tưởng. Riêng anh vẫn còn nghị lực sống thêm gần nửa thế kỷ, tiếp tục theo đuổi lý tưởng cuộc đời mình. Anh đã hiến dâng cả cuộc đời chỉ mong quê hương được độc lập, tự do, dân chủ. 
Bây giờ mong hương hồn anh Nguyễn Minh Cần không còn bị trói buộc trong “biển gió cát muôn trùng” này nữa. Những người còn ở lại sẽ tiếp tục con đường anh đã cùng đi qua, mỗi người mang trong mình bầu máu nóng, đức trong sáng của Nguyễn Minh Cần. Anh sẽ sống mãi trong lòng đồng bào, trong phong trào phục hưng tổ quốc. Cầu nguyện anh “an nhàn nơi cõi phước.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 6599)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6902)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 810)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33765)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4692)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4652)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4616)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4571)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4888)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4617)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567