Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Bác Nguyễn Minh Cần

27/05/201607:38(Xem: 5228)
Tiểu sử Bác Nguyễn Minh Cần

Nguyen Minh Can-3

TIỂU SỬ
ÔNG NGUYỄN MINH CẦN

Ông Nguyễn Minh Cần, tên khai sinh là Nguyễn Hân, pháp danh Thiện Mẫn, sinh ngày 31 tháng 12 năm 1928 tại xã Hương Bình, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Từ khi vào quốc tịch Nga, ông còn có tên tiếng Nga là Konstantin Mikhailovich Alikanov.

Năm 1945, khi còn là học sinh, ông đã tích cực tham gia vào việc tổ chức, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tại thành phố Huế và các vùng phụ cận.

Chưa đầy 18 tuổi, ông đã gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương năm 1946, và trở thành ủy viên Thường vụ thành ủy Huế.

Từ tháng 11.1946 đến tháng 5.1947, là uỷ viên trong Ban chỉ huy quân sự Khu B của Huế, chiến đấu chống Pháp, bảo vệ thành phố Huế.

Sau khi mặt trận Huế bị vỡ, từ tháng 5.1947 đến đầu năm 1951, ông hoạt động kháng chiến chống Pháp trong vùng địch tạm chiếm tỉnh Thừa Thiên. Tháng 5.1947, ông làm bí thư Huyện uỷ Hương Trà; tháng 4.1949, là tỉnh uỷ viên, sau đó là uỷ viên thường vụ Tỉnh uỷ Thừa Thiên.

Đầu năm 1951, Trung ương điều động ông ra Hà Nội để hoạt động trong thành phố Hà Nội đang bị Pháp chiếm đóng. Tháng 4.1951, ông giữ chức bí thư Quận uỷ Ngoại Thành, sau là thành uỷ viên và uỷ viên thường vụ Thành uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội và là chủ nhiệm báo Thủ đô Hà nội đến tháng 6.1962. 

Tháng 6.1962 ông được cử đi học ở Trường đảng cao cấp của trung ương đảng cộng sản Liên Xô và đã tốt nghiệp Trường Đảng cao cấp năm 1965.

Do có những ý kiến bất đồng về đường lối của trung ương, bị cáo buộc theo Chủ nghĩa xét lại, tháng 6 năm 1964, ông đã thoát ly đảng cộng sản và xin cư trú chính trị ở Liên Xô và sống tại đó cho đến cuối đời. Trong thời gian ở Liên Xô, ông làm nghề biên tập viên và phiên dịch cho Nhà xuất bản Tiến Bộ từ năm 1965 đến khi về hưu năm 1990. Trong 25 năm làm việc cho nhà xuất bản, ông đã dịch, biên tập gần 130 cuốn sách của các nhà văn, nhà báo, nhà chính trị nổi tiếng của Liên Xô và thế giới ra tiếng Việt. Cũng trong thời gian này, ông cùng bà vợ sau là Inna Malkhanova biên soạn bộ từ điển Nga-Việt đồ sộ với 43 ngàn từ là bộ từ điển Nga- Việt lớn nhất và đầy đủ nhất lúc bấy giờ (1977), được tái bản lần 2 và lần 3 (1979; 1987).

Sau khi đảng cộng sản Liên Xô bắt đầu thực hành đường lối đổi mới “perestroika”, từ năm 1987 đến năm 1993, ông đã cùng với bà Inna Malkhanova tích cực tham gia vào “Phong trào nước Nga dân chủ” đấu tranh chống chế độ Xô viết toàn trị, dẫn đến cuộc Cách mạng dân chủ ở Nga hồi tháng 8 năm 1991 làm sụp đổ chế độ cộng sản tại Liên Xô.

Trong thời gian ở Nga, ông vẫn tích cực tham gia và ủng hộ cuộc đấu tranh vì Dân chủ, Tự do, Nhân quyền của nhân dân Việt Nam và bảo vệ chủ quyền của Đất nước. Năm 1993-1994, với bút danh Trần Minh ông đã làm biên tập viên cho Đài phát thanh “Tiếng nói Tự do từ Mạc Tư Khoa”.

Sau khi nghỉ hưu ông đã tích cực viết sách, viết báo, cùng bà vợ biên soạn từ điển. Năm 2007 ra đời bộ từ điển Nga Việt Mới với hơn 50 ngàn từ, là bộ tử điển Nga-Việt lớn nhất và đầy đủ nhất hiện nay – thành quả lao động miệt mài của hai ông bà hơn 20 chục năm trời.

Các tác phẩm của ông đã xuất bản gồm:

1- Cuốn “Công Lý Đòi Hỏi”, in năm 1997;

2- Cuốn “Chuyện Nước Non”, in năm 1999;

3- Cuốn “Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế”, in năm 2001.

Đặc biệt cuốn “Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế” đã được dịch và in ra tiếng Anh năm 2004. Vào cuối đời, ông đã hoàn tất bản thảo bổ sung cho cuốn sách này với nhiều sự kiện trong 15 năm qua và hàng trăm bức hình, để chuẩn bị tái bản, nhưng sách chưa kịp ra mắt độc giả, thì ông đã ra đi.

Ngoài ra ông đã viết hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu, bình luận được phát trên các đài, được in trên các báo, tạp chí nổi tiếng trên khắp thế giới.

Trong thời gian ở Việt Nam ông đã được tặng thưởng:

1-     Huân chương kháng chiến hạng ba vào lễ kỹ niệm toàn quốc kháng chiến (1956);

2-     Huân chương kháng chiến hạng nhất của của chủ tịch nước VNDCCH (1961)

Trong thời gian ở Nga, làm biên tập viên và phiên dịch ông cũng đã được nhận nhiều bằng khen, huy chương của Ủy ban in ấn, trực thuộc Hội đồng bộ trưởng Liên Xô, Ủy ban quốc gia về in ấn và phát hành Liên Xô, nhà xuất bản Tiến Bộ.

Ông được tặng Huy chương kỹ niêm 850 năm Moscow - phần thưởng cho những người có công đóng góp to lớn cho sự phát triển của thành phố.

 

nguyen-minh-can-60

Vài nét về cuộc đời riêng của ông:         
                                                                  

Ông có bốn cô con gái với người vợ hiền ở Viêt nam đã quá cố Trần Thị Hoài Phương. Một người phụ nữ hơn 20 chục năm trời, một mình âm thầm chịu đựng mọi tại họa giáng trên đầu khi chồng bị cáo buộc theo chủ nghĩa xét lại,  tần tảo nuôi các con trưởng thành. Hiện nay có tất cả 20 con cháu và 7 chắt.

Từ năm 1971 ông sống với người vợ thứ hai, Inna Malkhanova.

Ông là người chồng hết mực yêu vợ, người cha rất đỗi thương yêu các con, là người ông rất yêu quý các cháu, chắt. Ông luôn mong các con cháu, chắt sống trung thực, lương thiện và có ích cho xã hôi.

Hai ông bà đều là Phật tử có pháp danh Thiện Mẫn, Thiện Xuân, đã cùng nhau thành lập Hội Phật Giáo Thảo Đường từ tháng 6 năm 1993 và cùng bà con Phật tử ở Nga xây cất ngôi chùa Thảo Đường tại Moscow.

 

Сuộc đời của ông là một tấm gương mẫu mực về đạo đức làm Người, về tình yêu Đất nước, sống với tấm lòng từ bi, chân thật, yêu thương người, yêu thương vật. Trái tim ông luôn hướng về Đất Việt, không vô cảm trước số phận của Đất nước và Dân tộc, và luôn cố gắng làm điều gì đó tốt cho Tổ quốc, cho Dân tộc mình.

Tiếc rằng, ông ra đi khi chưa kịp nhìn thấy một Đất nước Việt Nam no ấm, tự do dân chủ thực sự, hoài bão mà ông theo đuổi suốt cả cuộc đời.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2010(Xem: 11832)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
22/10/2010(Xem: 15020)
Vào khoảng các năm 1972–1974, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ, thường được Tăng Ni-Phật tử gọi cung kính gần gũi là “Ôn Già Lam”, đang trong thời gian dài hoằng pháp tại Nha Trang và các tỉnh miền Trung, Ôn tạm an trú trên chùa Hải Đức, nơi có Phật học viện Trung Phần, trên ngọn đồi Trại Thủy. Khoảnh vườn và thềm hiên phía trước tịnh thất của Ôn dần dà trở thành một hoa viên nho nhỏ với nhiều cây cảnh hoa lá đẹp lạ, là nhờ ở bàn tay chăm sóc thương yêu của một vị cao tăng đức độ nhân từ.
22/10/2010(Xem: 6719)
Chuông ngân chùa xẩm nắng Hương quyện áo tràng bay Trăm tám vì sao rạng Xoay tròn đôi 1óng tay Mười phương cây lặng gió Năm sắc hồ trôi mây Làn nước lên đầu núi Ánh vàng tràn đó đây.
21/10/2010(Xem: 7935)
Trong cõi nhân gian mịt mù tăm tối vì vô minh và phiền não, sự xuất hiện của một bậc chân tu đạo hạnh để dìu dắt con người trên đường tìm về giác ngộ và giải thoát, quả thật không khác gì một vì sao sáng trên bầu trời làm định hướng cho lữ hành trong đêm tối. Trong ý nghĩa này, Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn là một vì tinh tú sáng rực.
20/10/2010(Xem: 5816)
Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
19/10/2010(Xem: 12245)
Sáng ngày 22.01 Quý Tỵ (03.03.2013) tại Tổ đình Tường Vân, tổ 16, khu vực 5, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, Chư Tôn đức Tăng Ni trong sơn môn pháp phái Tường Vân đã đã trang nghiêm trọng thể tổ chức Lễ Tưởng niệm 40 năm ngày Đức Trưởng lão Đệ Nhất Tăng thống Thích Tịnh Khiết viên tịch.
16/10/2010(Xem: 8367)
Ấn tượng khó quên mà lần đầu tiên tôi gặp Thầy Phạm Công Thiện là Thầy đã khuyên tôi nên tinh tấn tu tập, thực hành lời Phật dạy và niệm Phật. Lần đó là vào giữa năm 1991, nửa năm sau khi tôi từ New York dời về Cali để sống, tại Chùa Diệu Pháp, thành phố Monterey Park, Los Angeles. Trong đầu tôi, trước khi gặp Thầy, mường tượng ra một Phạm Công Thiện hiên ngang và nói thao thao bất tuyệt về triết học Tây Phương, về Trung Quán, về Bát Nhã, v.v... Nhưng không, tất cả những suy nghĩ viễn vông và mộng tưởng đó đều bị sụp đổ tan tành khi tôi ngồi đối diện với Thầy Phạm Công Thiện trong một căn phòng nhỏ ở Chùa Diệu Pháp. Thầy Phạm Công Thiện, với dáng điệu từ tốn, khiêm cung, trầm lặng, chỉ nói những điều hết sức bình thường, chỉ khuyên những điều hết sức phổ thông mà người Phật tử nào cũng thường nghe quý Thầy khuyên bảo như thế.
13/10/2010(Xem: 5221)
Bữa tôi ra mắt sách tại Orlando, cựu Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh, Hội Trưởng Hội Cao Niên Orlando và Vùng Phụ Cận, có nhắc tôi là bài "Nhà Sư Của Tôi" (NSCT) trong cuốn tạp văn "Viên Đạn Cuối Cùng" còn thiếu nhiều chi tiết. Tôi cảm ơn cụ Quỳnh và hứa là nhân dịp Tân Niên Canh Thìn (y2k) tức Năm Rồng đầu thiên niên kỷ mới, tôi sẽ kể thêm về những câu chuyện tại Trại "cải tạo" Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
12/10/2010(Xem: 8105)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
11/10/2010(Xem: 6482)
Thượng tọa Thích Thông Huệ, thế danh Bùi Hữu Hòa, sinh năm Tân Sửu (1961) tại Phan Rang - Ninh Thuận. Năm 20 tuổi (Canh Thân - 1980) xuất gia với Hòa thượng Thích Đỗng Hải, trụ trì Tổ đình Sắc tứ Thiền lâm tự - Phan Rang, Ninh Thuận. Năm 1982 Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Thượng tọa đã đãnh lễ Hòa thượng Thích Đỗng Minh, cũng là vị Sư Bá trong tông môn, để được làm đệ tử Y chỉ sư.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]