Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lịch sử lại mất thêm một nhân chứng

27/05/201607:37(Xem: 4013)
Lịch sử lại mất thêm một nhân chứng


Nguyen Minh Can 2

LỊCH SỬ LẠI MẤT THÊM MỘT NHÂN CHỨNG

Nhà văn Vũ Thư Hiên hiện đang sống tại Pháp đã viết bài đặng trên trang facebook của mình để nói lên những cảm xúc của mình khi nghe tin chú Nguyễn Minh Cần vĩnh viễn ra đi. Hiện đã có trên 900 lời chia buồn của bè bạn khắp nơi gửi qua facebook của chú để chia buồn cùng gia đình chú Nguyễn Minh Cần.Dưới đây chúng tôi xin đọc một số đoạn trong bài viết của nhà văn Vũ Thư Hiên.

Thế là Nguyễn Minh Cần đã đi xa.
Đành rằng đã 88 tuổi trời, ông có chia tay với chúng ta âu cũng là lẽ thường. Nhưng mới hôm nào còn được nghe tiếng ông sang sảng bên kia đầu dây, mà hôm nay không còn có thể trò chuyện với ông nữa, thì tin ông mất vẫn cứ làm tôi choáng váng, như thể tin không thực. Cảm giác của con người là vậy - chúng ta quen thấy mọi vật như một cái gì đó vĩnh hằng, cho đến khi không thấy nữa mới biết là không còn.
Cuộc đời Nguyễn Minh Cần gắn liền với lịch sử Việt Nam cận đại. Rõi theo những khúc quanh của cuộc đời ông bằng con mắt chăm chú ta có thể thấy những bước dịch chuyển của tư duy hướng Thiện của những người như ông trong bối cảnh cái Ác lộng hành.
Nguyễn Minh Cần tham gia cuộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc rất sớm. Trong phong trào này ông trở thành đảng viên cộng sản cũng rất sớm. Năm 18 tuổi ông đã được bầu làm uỷ viên thường vụ thành uỷ thành phố Huế. Năm 25 tuổi đã là uỷ viên thường vụ thành uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch thành phố. Những người được đảng cộng sản tín nhiệm như ông không phải hãn hữu, nhưng cũng không nhiều. Nói tóm lại, Nguyễn Minh Cần được đảng đánh giá cao, được đặt vào hàng những đảng viên ưu tú. Để bồi dưỡng cho hàng ngũ kế cận, năm 1962 ông được cử đi sang Liên Xô (cũ) học tại Trường đảng cao cấp ở Moskva. Đảng không tin tưởng Nguyễn Minh Cần còn tin tưởng ai.
Thế mà đùng một cái, người đảng viên ưu tú ấy, cùng với một số đảng viên cũng ưu tú không kém, vào một ngày đẹp trời bỗng trở thành “phản động”. Cứ thông đồng bén giọt, trên chính trựờng Việt Nam ắt ta gặp một Nguyễn Minh Cần ở tầng cao nhất trong hệ thống cai trị, chứ không phải Nguyễn Minh Cần mà ta quen biết. Không biết đảng có ngạc nhiên với sự thay đổi đột ngột trong người đảng viên ưu tú của mình không, chứ dân thường ngạc nhiên lắm. Từ ngạc nhiên đến tò mò, từ tò mò đến tìm hiểu là những bước ngắn. Tìm hiểu rồi, người ta mới ngộ ra: Thay vì phải sùng bái đảng, coi đảng là lý tưởng, họ lại coi đảng không hơn bộ quần áo, cần thì mặc, thấy nó chật, nó rách, thì vứt.
Nguyễn Minh Cần là một trong số người này.
Bộ quần áo cộng sản thấy chật rồi, rách rồi, thì ông quẳng đi. Chỗ thích hợp cho nó, theo ông, là thùng rác lịch sử.
Bộ máy mật thám của đảng toàn năng đã làm việc rất tốt. Tôi vào tù. Nguyễn Minh Cần sống lưu vong.
Năm 1992 chúng tôi gặp lại nhau. Lần gặp gỡ này đáng nhớ. Nó là lần gặp lại của hai người trước sơ, nay đã thành thân - chúng tôi giờ có chung một con đường.
Ngày trước tôi chỉ biết một Nguyễn Minh Cần, thường vụ thành uỷ, phó chủ tịch thành phố Hà Nội, phụ trách mảng nông thôn, và cũng chỉ gặp ông trong những cuộc họp báo.
Khi ấy Nguyễn Minh Cần là quan, tôi là dân. Chúng tôi có vài cuộc trò chuyện bên lề, là hết. Sơ là sơ thế thôi, có biết nhau, nhưng không hề là bạn.
Giờ đây, chúng tôi có nhiều chuyện để hàn huyên - nhiều nhất là những chuyện thâm cung bí sử mà trước đây mỗi người chỉ được biết một mảng, biết mà không nói ra, không dám nói ra, vì… bộ quần áo đang mặc. Nay vứt nó đi rồi, chúng tôi bàn luận thoải mái, thênh thang. Chẳng hạn như chuyện cái chết thương tâm của bà hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn… Ái Quốc. Cùng sống ở Moskva, chúng tôi gặp nhau thường. Từ những chuyện trò tâm sự tôi hiểu ông: Nguyễn Minh Cần đã tìm được con đường đúng cho mình nhờ lý trí thì ít mà nhờ trái tim thì nhiều.
Bước ngoặt đến, đảng không thuyết phục được ông thì đảng bắt ép ông phải tuân theo. Ông không còn lựa chọn nào khác là phải vạch trần những sai trái của đảng, rồi đến lúc ông phải tuyên bố ly khai nó.
Cuộc sống lưu vong, lại ở trong một nước cũng vẫn là cộng sản, không hề dễ dàng. Nhất là đối với những người không chỉ ly khai đảng của họ, mà còn ly khai với cả lý thuyết mác-xít mà Đảng cộng sản Liên Xô vẫn còn coi là kinh thánh. Người ta cho nhóm đảng viên cộng sản Việt Nam ly khai được tị nạn chính trị trong bối cảnh giữa hai đảng có những bất đồng. Một khi những bất đồng được dàn xếp xong, hiểm hoạ bị trục xuất về Việt Nam vẫn như thanh gươm Damocles lủng lẳng trên đầu Nguyễn Minh Cần và những người bạn ông. Chuyện này dài, nhiều chi tiết đau lòng, không biết Nguyễn Minh Cần có ghi lại đâu đó không?
Năm 1993, ông lập Hội “Phật giáo Thảo đường” đầu tiên ở Moskva. “Ở mọi nước cộng sản ta đều thấy hiện tượng xã hội xuống cấp, suy đồi - ông tâm sự - Nguyên nhân là mọi con đường dẫn tới cái Thiện tâm linh đã bị huỷ hoại tận gốc. Mọi xã hội cộng sản rồi sẽ tiêu vong, điều đó tất yếu, nhưng cái còn lại sau sự sụp đổ của nó mới là cái đáng sợ hơn hết - sự trống vắng mọi niềm tin. Phật giáo là một minh triết tâm linh, không phải một tôn giáo có tổ chức, nó là phương thuốc tốt cho một xã hội tan nát”.
Để lập Hội “Phật giáo Thảo đường” nhỏ bé, chỉ là một căn hộ bình thường, đủ chỗ cho một số không nhiều những tín hữu đầu tiên đến tu tập, ông không có một xu dính túi. Tôi đưa ông một số tiền nhỏ. Ông nói đây là tiền vay và ông sẽ trả. Quả nhiên, năm sau ông đem trả tôi số tiền tôi ủng hộ, nói thế nào ông cũng không chịu. “Khi tôi trả được, có nghĩa là “Phật giáo Thảo đường” đã hoạt động, đã có sự đóng góp của các tín hữu đồng đạo. Ông mừng cho chúng tôi đi”.

Mỗi con người đi xa (tôi không muốn, tôi buồn khi phải đặt bút viết chữ “mất”) bao giờ cũng để lại trong tôi một ấn tượng, như món quà cuối cùng.
Ấn tượng về Nguyễn Minh Cần là hình ảnh một con người trong sáng. Có được lương tâm trong sáng ấy là do ông có một trái tim rất Thiện.
Chả thế mà ông chọn cho mình pháp danh Thiện Mẫn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 28661)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
09/04/2013(Xem: 7357)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 5170)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 6134)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 12742)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 6339)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 7478)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 9777)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 4873)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7015)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567