Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội An và Kỷ Niệm

14/03/201620:12(Xem: 7137)
Hội An và Kỷ Niệm

HT Nhu Hue (5)
HỘI AN VÀ KỶ NIỆM

Kính dâng lên Hòa Thượng Thích Như Huệ


Con xin kể về một kỷ niệm thời đi học như một lời tri ân của người học trò đối với Thầy của mình.


Bố mẹ tôi là người Hà Nội di cư 54, Bố tôi chọn Hội An để lập nghiệp, và tôi được sanh ra ở đó (Hội An), thành phố nổi tiếng là bé nhỏ nhưng rất an bình như cái tên gọi của nó, tôi yêu Hội an, tôi yêu những người dân ở đó, bởi bản chất của họ mộc mạc, chân thật và thân thiện, và tôi cũng yêu những con phố cổ, nhỏ hẹp rêu phong, nơi đó đã cất dấu của tôi một kỷ niệm khó phai trong ký ức.

Những năm đầu của trung học, tôi đã theo học ở trường Trung học Bồ Đề, lúc đó HT Thích Như Huệ, Phương Trượng chùa Pháp Hoa bây giờ là Thầy Hiệu Trưởng trường chúng tôi, Thầy có gương mặt rất khả kính, dáng vẻ oai nghi và nụ cười từ ái. Năm đó Ngài còn rất trẻ, dường như chỉ mới là Đại Đức thôi, tôi nhớ có đôi lần thấy Thầy đi ngang qua đám nữ sinh chúng tôi, thế nào cũng có đứa tinh nghịch chọc phá Thầy, người ta thường bảo "nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò" quả không ngoa chút nào, nhưng ít khi thấy Thầy phạt ai cả.

Học ở đây chúng tôi được thêm vào chương trình môn giáo lý, thật ra lúc đó chúng tôi học giáo lý, chỉ để học, chứ tuổi trẻ cũng chưa thấy được tầm quan trọng của môn học này. Sau này lớn lên, va chạm với khổ đau trong đời sống tôi mới hiểu ra rằng, Đạo Phật đi vào đời đem lại rất nhiều lợi lạc cho cuộc đời, xây dựng một đời sống hướng thượng, giúp con người hiểu biết sâu sắc để có thể tự hoàn thiện bản thân mình.


truong-bo-de-hoi-an

Trường Trung Học Bồ Đề Hội An (3 tầng gồm 15 phòng học) do HT Như Huệ  xây dựng năm 1965,
Sau 1975 Trường này đã đổi tên thành Trường Phổ Thông Cơ Sở Nguyễn Duy Hiệu


Tôi còn nhớ niên khóa 1971-1972 lúc đó tôi đang theo học lớp 8, vào giờ ra chơi, chúng tôi tụ tập một nhóm khoảng 5, 6 người đứng trò chuyện, thì bỗng dưng tôi cảm thấy có một vật gì xoáy nhanh vào đằng sau gáy, phản xạ tự nhiên tôi lấy tay ôm lấy vết thương, một cảm giác ươn ướt trong lòng bàn tay và rồi cứ thế máu tuôn chảy xuống vạt áo dài trắng, tôi nói với người bạn bên cạnh "tau bị lạc đạn rồi" nhưng vì không có tiếng súng nổ nên không ai có thể nghĩ là tôi bị trúng đạn, thế rồi tôi ngã quỵ xuống theo tiếng la thất thanh của cô bạn học và bất tỉnh ngay sau đó. Mãi cho đến khi tôi nghe được tiếng Bố tôi nói với vị Bác Sĩ nào đó "Cám ơn Bác Sĩ đã tận tình cứu giúp cho con gái tôi" và  rồi tiếng nói thì thầm của Mẹ tôi hỏi "Con thấy thế nào rồi hả con?" Lúc đó dù nghe được tất cả, nhưng có lẽ còn ngầy ngật bởi thuốc mê, nên tôi không mở mắt để nhìn, mà chỉ gật nhẹ đầu cho Mẹ được yên tâm. Thật là một may mắn lớn trong đời, vì nghe theo lời kể lại của Bố tôi, viên đạn M16 đó đã xém lấy mạng của tôi (chắc cũng có ân oán chi với tôi từ kiếp trước), viên đạn ấy nằm sát vào dây thần kinh, nên ca mổ đã kéo dài suốt 2 tiếng đồng hồ với tất cả sự cố gắng của vị bác sĩ đó, có thể nói đây là vị ân nhân của đời tôi, đã cứu tôi thoát khỏi bàn tay tử thần. Và thế là tôi phải nằm ở bịnh viện cả hai tuần, trong những ngày tháng ấy các bạn ở lớp cứ thay phiên nhau đến thăm tôi mỗi ngày, vết thương tuy có phần làm tôi đau nhức, nhưng trong tôi tràn đầy  một cảm giác ấm áp …tôi thầm nghĩ chắc hẳn các bạn đã được sự hướng dẫn của các Thầy cô. Xin chân thành cảm niệm tri ân Thầy Hiệu trưởng (HT Phương Trượng chùa Pháp Hoa bây giờ) các thầy cô và bạn bè của tôi nơi đó, cảm ơn tất  cả những tình cảm ưu ái đã dành cho tôi ngày ấy, dạy cho tôi hiểu rằng "thế nào là yêu thương chân tình". Và có lẽ cái kỷ niệm thuở đó đã để lại tận sâu trong tâm thức tôi, thế nên sau này đâu đó tôi gặp lại những người Hội An, dường như trong tôi vẫn có cảm giác như họ rất đỗi thân quen và gần gũi.

Rồi mùa Hè năm đó Bố tôi đã quyết định dọn vào Sàigòn (có lẽ Bố lo an toàn cho vợ con), nhưng mới vào Sàigòn được vài tháng thì Bố tôi bị đột quỵ và cũng bỏ chúng tôi mà đi. Mẹ tôi vốn dĩ không quen mấy với những chốn đông đúc bon chen như Sàigòn, nên Mẹ phải vất vả hơn để nuôi chị em chúng tôi, đến  năm 75, Sàigòn bị mất, tôi  cũng cố gắng thi hoàn tất xong lớp 12 và để Mẹ đỡ phải lo cho mình, tôi đã  tự tìm cho mình một việc làm thích hợp, năm 80 tôi lập gia đình, cuối năm 82 tôi sanh đứa con đầu tiên. Khi cháu được gần 6 tháng vợ chồng tôi quyết định vượt biên, và may mắn chúng tôi được tàu chở dầu của Mỹ vớt và đưa vào tạm trú ở Nhật được một năm, sau đó chúng tôi được chú em chồng bảo lãnh sang Úc.


Những năm đầu mới định cư ở Úc, cuộc sống khá khó khăn, tôi rất ít khi có thời gian về chùa. Vào những dịp lễ lớn thỉnh thoảng tôi có đến ngôi chùa Quang Minh gần nhà, nằm trên đường Morris ở vùng Sunshine, lúc ấy Thầy Trụ Trì là Thầy Tâm Phương, đó cũng là vị Thầy thứ hai tôi được gặp trong đời (sau Thầy Hiệu Trưởng của tôi). Sau những năm tháng bươn chải nơi xứ người rồi đời sống cũng tạm ổn định, chúng tôi về chùa thường xuyên hơn, tôi nhớ lúc đó SP Tâm Phương đã mua được ngôi trường cũ ở vùng Fawkner và đang tu sửa, thế là vợ chồng tôi có cơ hội về công quả mỗi tuần, cũng nhờ vậy nên tôi có duyên gặp lại được Thầy Hiệu Trưởng ngày xưa, trong dịp lễ An vị Phật tại Tu Viện Quảng Đức vào năm 1997.


HT Nhu Hue-TT Tam Phuong
Hình chụp tại Lễ Khánh Tạ Tu Viện Quảng Đức vùng Fawkner vào 1996,
Từ phải sang: Tác giả Diệu Hiền, Tâm Quang (phu quân của tác giả), TT Tâm Phương, HT Như Huệ, SC Hạnh Nguyên,
bé Thảo My, Thiện Kim, Thiện Ngọc.



Bây giờ Thầy đã là một vị Hòa Thượng, với dáng vẻ rất đạo mạo và uy nghiêm hơn, vợ chồng tôi đến thăm Thầy, và tôi đã hỏi Thầy "BạchThầy! Thầy còn nhớ con không?” HT trầm ngâm một lúc rồi lắc đầu, mà Thầy không nhớ ra cũng phải, đã 25 năm rồi, kể từ năm 72 tôi rời xa Hội An đến bây giờ mới gặp lại Thầy, với bao biến động cuộc đời làm sao Thầy có thể nhớ ra tôi, nhưng vẫn với giọng điệu tinh nghịch của ngày xưa tôi nói với HT "Bạch Thầy! Con là một học sinh có một kỷ niệm khá đặc biệt với trường, mà Thầy lại không nhớ con? ", HT chỉ mỉm cười nhìn tôi, rồi tôi quỳ xuống gần bên Thầy và thưa "Bạch Thầy! Con là cô học trò năm xưa bị đạn lạc đó thưa Thầy". Có lẽ lúc đó HT như  chợt nhớ ra và hỏi tôi "Là con đó hả? Bây giờ cuộc sống của vợ chồng con ra sao rồi? Con cái được bao nhiêu đứa?" Tôi cười và trả lời Ngài "Dạ con được hai cháu ,cuộc sống cũng tạm ổn thưa HT" (năm 98 tôi sanh thêm  một cháu trai nữa) từ đó mỗi lần Thầy có dịp về Quảng Đức, tôi thường được SC Hạnh Nguyên dẫn đến vấn an sức khỏe Thầy. Nhưng thưa Thầy! Con cũng biết con còn rất nhiều thiếu sót với Thầy, kính mong Thầy từ bi thứ tha cho con.

Kính Bạch Thầy! Nhìn lại chặng đường dài suốt 35 năm lưu lạc nơi xứ người, với những Phật sự mà Thầy đã hy sinh và cống hiến cho phật giáo, mang Đạo Phật đi vào lòng người, làm lợi lạc cho hậu thế, Ngài đã vững tay chèo lái con thuyền Chánh Pháp qua bao thăng trầm. Giờ đây tuổi đã cao, sức đã yếu nhưng trí tuệ vẫn sáng suốt để tiếp tục dìu dắt đàn hậu học chúng con Thầy đã khai mở cho chúng con đến gần với Phật Pháp và cũng là người gieo trồng trong chúng con những hạt giống thiện lành, để trên bước đường đời, có những lúc phải va chạm với khổ đau, con đã biết quay về với Tam Bảo, một nơi chốn bình yên để nương tựa. Với những ân đức ấy con xin đê đầu cảm niệm tri ân Thầy và nguyện sẽ  sống xứng đáng là một người Phật tử, một học trò của Thầy, luôn ý thức trong từng lời nói,việc làm của mình, để không gây tổn thương đến cho người.

Nhân dịp GH và Trường Hạ Quảng Đức tổ chức Lễ Tri Ân những công đức mà Thầy đã đóng góp cho PGVN tại Úc, con thành tâm để đầu đảnh lễ kính mừng thượng thọ Thầy, chúng con xin thành tâm khấn nguyện Mười Phương chư Phật gia hộ Thầy Phúc Thọ Miên Trường, mãi mãi là ngọn đèn truyền pháp tiếp tục chiếu sáng để hàng hậu học chúng con nương theo.


Nam Mô A Di Đà Phật.

Melbourne, mùa thu 2016.
Đệ tử Diệu Hiền

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6005)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8392)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5436)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5896)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6871)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7568)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5131)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6551)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6508)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14407)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]