Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoài Niệm

08/03/201621:46(Xem: 6716)
Hoài Niệm


2-HT-NhuHue

Hoài Niệm

Kính Dâng Hòa Thượng Cựu Hội Chủ

Phương Trượng Tổ Đình Pháp Hoa thượng Như hạ Huệ


Sau mấy tháng định cư tại Úc Châu, tôi được mời đến dự Đại Hội Khoáng Đại của Giáo Hội tổ chức tại Trường Trung Học Fairfield, Sydney vào khoảng tháng 4 năm 1987, tại Đại Hội này, lần đầu tiên tôi gặp được Thượng Tọa Thích Như Huệ , Ngài là Giáo Hội Trưởng Giáo Hội Phật Giáo tại Nam Úc, Khai Sơn Chùa Pháp Hoa. Đi dự Đại Hội cùng Hòa Thượng có Sư Cô Như Thiền, Chú Hạnh Pháp, Hạnh Thông và cô Diệu Ý, Bác Tươi, anh Lưu Hoằng Nguyện và vài Đạo Hữu khác nữa.

Chú Hạnh Pháp, Hạnh Thông, Cô Diệu Ý được thọ Sa Di Giới Đàn Phương Trượng tại Đại Hội này, cùng với Chú Phước Tấn, Chú Phước Minh, Cô Phước Tường, Cô Phước Đạt, 4 vị này là đệ tử của Hòa Thượng Phước Huệ. Cả 7 vị này bây giờ duy nhất chỉ còn một mình Thượng Tọa Thích Phước Tấn, Trụ Trì Chùa Quang Minh. Giới Đàn Phương Trượng lúc đó tôi còn nhớ có HT Phước Huệ, HT Huyền Tôn. HT Như Huệ, TT Bảo Lạc, ĐĐ Quảng Ba, ĐĐ Phước Nhơn, ĐĐ Nhật Tân, ĐĐ Như Định, ĐĐ Tâm Phương và ĐĐ Minh Lâm.

     Cũng nên nhắc lại lẽ ra tôi được về ở chung với Hòa Thượng tại Chùa Pháp Hoa, Ngài có nhắc hoài chuyện này. Chuyện là như thế này, tâm trạng của người tị nạn vừa đến đảo, thì cứ ai giới thiệu đi đâu thì làm giấy tờ liền. Lúc bấy giờ TT Thích Thiện Quang trước kia ở Chùa Bửu Đà, Sài gòn cùng với Hòa Thượng Thích Như Huệ, TT Thiện Quang đến đảo Bidong trước tôi 1 tuần lễ, nên giấy tờ cũng chưa làm. Sau khi tôi đến đảo vài ngày thì TT Thiện Quang nói có quen biết TT Như Huệ hiện đang ở Úc, thôi thì Huynh đệ mình gởi giấy tờ qua đó, chúng tôi liền làm giấy tờ chung nhau, đồng thời tại văn phòng Cao Ủy người Tị Nạn họ cũng có cho địa chỉ của Giáo Hội Phật Giáo tại Úc Châu, cùng một thời điểm tôi gởi 2 hồ sơ: 1 cho Văn Phòng Giáo Hội tại Chùa Phước Huệ 31 Landon St, Fairfield; 1 cho Chùa Pháp Hoa Nam Úc, và sau 1 tháng TT Quảng Ba vào đảo thăm Thầy Quảng Trừ, chúng tôi được gặp nhau và TT Quảng Ba về cũng làm cho tôi 1 hồ sơ nữa. Nhưng cuối cùng Bộ Di Trú chấp nhận cho tôi đi theo Hồ Sơ của Giáo Hội, do Hòa Thượng Phước Huệ bảo lãnh.

Tôi đến Úc vào ngày 6.2.1987, Đại Đức Thích Minh Lâm ra Phi Trường đón tôi, về đến Chùa Phước Huệ, tôi không gặp được Hòa Thượng, nghe quí Thầy kể lại là HT đi Mỹ rồi.

 

 


HT Nhu Hue_TT Tam Phuong

Trưởng Lão HT Như Huệ & Tác giả TT Tâm Phương

    

Chiều hôm đó tôi điện thoại báo cho HT Quảng Ba là tôi đã đến Úc, HT Quảng Ba sốt sắng từ Canberra lái xe xuống liền, tối hôm đó Ngài đưa tôi đến thăm Tịnh Thất của Thầy Phước Độ, tại đây tôi có gặp Thầy Thiện Hương người Huế, Thầy Thiện Phát, Sư Cô Trung Huyền, những vị này nay không còn tu nữa.. Riêng Thầy Thiện Hương, Thầy Thiện Phát đã về với Phật rồi.

Đi cùng HT Quảng Ba lúc bấy giờ có cả ĐĐ Lệ Trụ, Thầy Lệ Trụ và tôi biết nhau từ năm 1982 tại Trường Hạ Pháp Vân Gia Định Bình Thạnh Saigòn. Sáng hôm sau HT Quảng Ba, Thầy Lệ Trụ đưa tôi về Caberra thăm Chùa Vạn Hạnh và có cả ĐĐ Minh Lâm, Thầy Thiện Phát lái thêm chiếc xe thứ 2 nữa.

Tôi nhớ đời chuyến đi này. Vốn là người dân quê VN, không thường đi xe hơi, lần đi này HT Quảng Ba cũng là một tài xế liên bang có hạng, Ngài cho tôi tuôn ra từ bao ni lông này đến bao khác, bao nhiêu chip, cocacola lót dạ dọc đường, cứ tự nhiên đi ra đến cả mật xanh, mật đỏ cũng tuôn ra luôn, tôi nằm vùi ở băng sau xe, mặt mày tái xanh.

Tôi kể vòng vo như vậy vì từ những ngày đầu của tôi trên xứ Úc cũng có nhiều kỷ niệm đáng ghi. Hoài niệm sao cho hết những chặng đường dễ thương của tình Pháp Lữ cùng thuyền trên bước đường Thượng Cầu Hạ Hóa.

Sau lần Đại Hội Khoáng Đại năm 1987 sau khi tôi đến Úc 2 tháng, tính đến nay đã tròn 30 năm. Tôi luôn đứng bên cạnh Giáo Hội làm được những gì khiêm tốn với khả năng yếu kém của mình.

Hòa Thượng Thích Như Huệ cùng tôi có chút thâm tình Thầy trò hơn những vị khác có lẽ khi Cô Hạnh Nguyên từ những ngày đầu Cô xin đi Xuất Gia với tôi, nhưng tôi cảm thấy mình chưa đủ đức độ, nên gởi Cô lên Hòa Thượng để tập sự.  Ngày Cô Hạnh Nguyên xuống tóc sau hơn 6 tháng tập sự, Hòa Thượng có mời tôi lên dự lễ Thế Phát. Trong buổi lễ này HT giải thích với mọi người tham dự: “Tôi cho Cô Pháp danh Hạnh Nguyên chữ Hạnh là dòng kệ của tôi, còn chữ Nguyên là dòng kệ của Thầy Tâm Phương”.

Kính bạch Chư Tôn, kính thưa quí vị, bây giờ ngồi đây tôi xin viết đôi dòng hoài niệm những kỷ niệm đáng nhớ về Hòa Thượng Cựu Hội Chủ cùng tôi gắn bó với Phật Giáo Úc Châu suốt chiều dài 30 năm, thật không sao kể cho hết. Tôi nhớ Hòa Thượng làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp, tôi làm Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hoằng Pháp khi tôi còn Trụ Trì Chùa Quang Minh, Hòa Thượng đã chỉ đạo cho tôi đứng ra tổ chức Khóa Tu Học Pháp thường niên năm ngày, từ những năm đầu tiên cho Giáo Hội.

Khóa đầu tiên năm 1988 được tổ chức tại Dandenong Centre, quy tụ 150 học viên. Khóa Học này  lúc bấy giờ có HT Phước Huệ, TT Huyền Tôn, TT Như Huệ, TT Bảo Lạc, ĐĐ Quảng Ba, ĐĐ Phước Nhơn, ĐĐ Nhật Tân và Tôi. Khóa Thứ 2 năm 1990 cũng tại Melbourne, địa điểm Fortcample cách Melbourne 250 cây số, khóa này lên đến trên 250 học viên, có cả một số đoàn sinh gia đình Phật tử.

Nhắc đến đây tôi chợt nhớ thêm một chuyện. Tháng 6.1990 tôi đã rời Chùa Quang Minh, Khóa Tu Học Thường Niên của Giáo Hội vào cuối tháng 12. 1990. Phái đoàn của Chùa Pháp Bảo có 10 học viên do TT Thích Bảo Lạc dẫn đoàn trú ngụ tại Quảng Đức, Broadmeadows.

Sáng hôm sau phái đoàn này cùng tôi lên chiếc xe 12 chỗ ngồi do tôi lái, khi lên xe HT Pháp Bảo nói “quí vị thấy đặc biệt và ưu ái không? Chính Thầy Trưởng Ban và Trụ Trì Quảng Đức lái xe đưa quí vị, thì còn gì bằng nữa,” cả xe đều vỗ tay cười vui vẻ, lần đầu tiên tôi cầm lái chiếc xe 12 chỗ ngồi vượt đường xa 250 cây số, cả đi lẫn về 500 cây, và tôi nhớ tôi đi nhiều chuyến lắm.

Nhắc lại như vậy để thấy Công Đức nhìn xa thấy rộng của Hòa Thượng Cựu Hội Chủ từ những năm đầu tiên tại Úc này. Học Phật và tu theo Giáo Lý Chánh Kiến Chánh Tư Duy, Chánh Định, Chánh Mạng là căn bản của người con Phật. Nhiệm vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp của Giáo Hội từ nhiệm kỳ đầu tiên khi Giáo Hội vừa mới thành lập năm 1981 cho mãi đến năm 1994 của Hòa Thượng Thích Như Huệ, phải chăng là ngọn đuốc sáng để khai mở con đường cho những Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu được tiếp nối đến ngày hôm nay.

Viết và nói về Hòa Thượng Cựu Hội Chủ tôi không thể nào quên những chặng đường gian nan khó khăn của tôi khi vừa mới rời Chùa Quang Minh. Cũng xin nhắc lại cho Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni đã định cư trên nước Úc bằng nhiều con đường khác nhau sau năm 1990 biết rằng, Giáo Hội  Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi -Tân Tây Lan là Trung Ương. Các tiểu bang đều có Giáo Hội Địa Phương. Mỗi tiểu bang chỉ có duy nhất một ngôi Chùa. Victoria, Chùa Quang Minh; Nam Úc, Chùa Pháp Hoa; Canberra, Chùa Vạn Hạnh; Brisbane, Chùa Pháp Quang; Tây Úc, Chùa Phổ Quang..

Quảng Đức là ngôi chùa do chúng tôi khai sáng vào đầu thập niên 1990. Giai đoạn tôi này đã phải trải qua nhiều gian truân cay đắng lắm, nhưng bên cạnh đó có Hòa Thượng Pháp Hoa. Ngài lúc nào cũng sát cánh và ủng hộ động viên tôi luôn nhẫn nại vượt qua những chặng đường khó khăn của những ngày đầu tiên tại Quảng Đức Tự nhỏ bé  ở Broadmeadows. Ngài nói, “với ý chí và cách làm việc của ĐĐ tôi tin tưởng là ĐĐ sẽ hanh thông trên bước đường hoằng pháp lợi sanh.”     

Có lẽ từ những lời động viên sách tấn của Hòa Thượng tôi luôn dặn mình, giữ mình và kham nhẫn chịu đựng, nhưng không quên nỗ lực tinh tấn liên tục công tác cùng Giáo Hội trên mọi lãnh vực với khả năng khiêm tốn yếu kém của mình.

Ngôi Chùa nhỏ của tôi lần đầu tiên làm lễ An Vị Phật, tôi cũng thỉnh được Ngài đến Chứng Minh và ban Đạo Từ, rồi từ đó mãi cho đến ngôi Tam Bảo Quảng Đức được  thuyên chuyển về 105 Lynch Rd, Fawkner đã đổi thành Tu Viện Quảng Đức mang tên một Vị Bồ Tát đã hy hiến cuộc đời của mình cho Phật Giáo Việt Nam được trường tồn.

Kính bạch Chư Tôn Đức, kính thưa quí vị, một chặng đường dài 16 năm làm Hội Chủ của HT Thích Như Huệ ở giai đoạn Phật Giáo Hải Ngoại phân chia nhiều ngã rẽ.. Ngài thường nói “tứ bề thọ địch…” Thật như vậy một giai đoạn đầy gian nan thử thách của Ngài. Ngài đã lèo lái con thuyền của Giáo Hội được vững bền, trên thuận dưới hòa, kể cả mối thâm tình giao hảo với các Châu Lục, như Giáo Hội Hoa Kỳ, Giáo Hội Canada, Giáo Hội Âu Châu, và hầu hết Chư Tôn Đức nào cũng kính quí Ngài như một bậc Trưởng Thượng Thiền Gia Phương Trượng.

Ngài như Lương Đống Thạch Trụ của Phật Giáo Úc Châu và Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc, và với tất cả từng thành viên Tăng Ni trẻ hàng hậu học, Ngài luôn ân cần và nhắc nhở thăm viếng hòa đồng không câu nệ. Nơi nào cần có mặt Ngài cho Phật Pháp được Hưng Long, Tứ Chúng được an hòa Ngài cũng không từ nan mà gắn bó. Chừng ấy của cuộc đời Ngài đủ làm tấm gương sáng cho đàn hậu thế cần suy nghĩ noi gương.

Thời gian và không gian bất tận, một đời người rồi cũng qua đi, như lời Trịnh Công Sơn đã viết lên trong nhạc phẩm Phôi Pha (Từng tuổi xuân đã già… đời người như gió qua… ) Hòa Thượng năm nay đã 83, tuổi Giáp Tuất. Ngài đã hơn 60 năm phụng hiến đời mình cho ngôi nhà Phật Giáo, cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi -Tân Tây Lan được trường tồn, nhưng đặc biệt nhất, vẫn là những người con Phật tại Tổ Đình Pháp Hoa Nam Úc nói riêng và nói chung cho cộng đồng Người Việt Tự Do tại South Australia không sao quên được công lao gây dựng niềm tin Chánh Pháp và sự ổn định nền văn hóa Phật Giáo Việt trên xứ người tại tiểu bang này.

Rồi một ngày mai, “từng tuổi xuân đã già”, Hòa Thượng sẽ đi vào Niết Bàn Tịch Tịnh, nhưng chắc chắn nơi Úc Đại Lợi này vẫn còn lưu đậm những hành trạng công đức và gốc rễ Bồ Đề của Ngài đã ươm mầm cho Phật Pháp.

Chúng con xin chắp tay thành kính nguyện cầu mười phương Chư Phật, mười phương Chư Vị Bồ Tát, Chư Lịch Đại Tổ Sư chứng minh công đức lao tâm khổ nhọc của Hòa Thượng gần 70 năm sống và làm việc cho Đạo Pháp và Dân Tộc.

Nguyện cầu Hòa Thượng Bách Thọ Niên Trường cho Giáo Hội Úc và hàng hậu học chúng con được nương nhờ bóng cây Đại Thọ Bồ Đề của Hòa Thượng.

 


Quảng Đức Tu Viện, 1/3/2016

TK. Thích Tâm Phương

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 6522)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 4533)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4491)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4421)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10317)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5158)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 5975)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6514)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7816)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9011)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567