Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kính dâng HT Thích Huyền Tôn

18/02/201612:45(Xem: 5698)
Kính dâng HT Thích Huyền Tôn



HT Huyen Ton
Kính dâng

 Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn

 

Năm nay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan sẽ làm lễ”Tri Ân và Tán Thán Công Đức” của nhị vị Đại Lão Hòa Thượng nhân Khóa An Cư Kiết Đông kỳ thứ 17  của Giáo Hội tại Tu Viện Quảng Đức Melbourne, Úc Châu và Giáo Hội cũng muốn thực hiện hai quyển Kỷ Yếu để dâng lên Quý Ngài nhân dịp nầy, nên đã ra thông tư kêu gọi những thành viên của Giáo Hội viết về Quý  Ngài để cho vào những tập Kỷ Yếu nầy, nhằm  lưu niệm  lại cả ngàn sau.

 

Viết về người qúa vãng thì rất dễ viết, vì ”cái quan, luận sự” là chuyện thường làm lâu nay, nhưng nay viết về các bậc trưởng thượng, nhất là khi Qúy Ngài vẫn còn tại tiền, đâu phải là chuyện dễ phóng bút. Vả lại Ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn là một bậc Nho gia lẫn Phật gia, ai dám múa rìu qua mắt thợ  và ai dám diễn võ trước Ngài? Vì ở phương diện nào Ngài cũng vượt trội hơn người trong Đạo cũng như kẻ ngoài Đời. Tôi chắc rằng sẽ ít người lý luận cùng Ngài mà thắng cuộc. Nhìn Ngài như trông thấy một Lão Tướng lẫn Lão Tăng. Nay tuổi gần 90 rồi mà vẫn còn hồng hào, đẹp lão; khiến cho ai đó khi gặp Ngài cũng nể vì. Có thể vì dáng đi của một người giỏi võ xứ Quảng hay nhìn đạo phong cốt cách thoát tục của Ngài mà mọi người kính trọng chăng? Trong đó có người viết bài nầy. Tôi gặp Ngài lần đầu tiên tại Melbourne vào năm 1981, sau khi Ngài đã đến Úc được một năm. Thưở ấy Ngài là sáng lập chùa Quang Minh tại vùng Sunshine thuộc Tiểu Bang Victorira nằm ở thành phố Melboure; một thành phố mỗi ngày có 4 mùa mưa nắng, thành phố chẳng giống ai cả, vì muốn rẽ trái hay rẽ phải xe hơi phải vào đường ranh ở  giữa để quẹo, chứ không phải quẹo thuận chiều theo mặt hay theo trái như các nước khác ở Tây Phương. Tôi đã đặt chân xuống thành phố nầy từ cuối năm 1978, rồi đầu 1979 và năm 1980, 1981 lại được đãnh lễ Ngài và Cố Hòa Thượng Thích Tắc Phước tại Melbourne cũng như tại Sydney.

 

Nước Úc có nhiều điều để nói và để học hỏi, nhưng điều chắc chắn mà lớp hậu học Phật  Tử cũng như chư Tăng Ni  phải cần nên biết là nhị vị Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn và Cố Hòa Thượng Thích Tắc Phước (Phước Huệ) là hai vị Tổ khai sáng ra Phật Giáo Việt Nam tại Úc Châu, mặc đầu trước đó có Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, Thầy Đồng Trung và cá nhân chúng tôi cũng đã có mặt tại Úc sớm hơn Qúy Ngài; nhưng chúng tôi không định cư tại Úc, nên không dám xen phần vào lịch sử Phật Giáo Việt Nam của xứ nầy.

 

Lần đầu tiên tôi đến Melbourne từ Sydnney bằng máy bay nội địa, đi loại Standby. Ngày đó cách đây 35 năm về trước nếu ai đó đi Standby là loại vé máy bay rẻ tiền nhất. Có lẽ hãng máy bay nghĩ rằng: nếu không có người đi thì máy bay cũng bỏ trống chỗ, nên bán đại hạ gía. Nhiều khi vé hai chiều đi về Sydney Melbourne chỉ có 80 Úc Kim thuở ấy. Bây giờ thì ngược lại, nếu ai muốn đi gấp loại Standby thì phải trả giá  cao hơn gấp  mấy lần như thế và ngay cả giá vé bình thường bây giờ đi trong nội địa của nước Úc cũng  tăng lên gấp nhiều lần rồi và ngày xưa không còn là ngày nay nữa. Do vậy Đức Phật đã dạy trong phẩm Sư Tử Hống trong Kinh Đại Bát Niết Bàn rằng:” tất cả mọi pháp đều bất định”. Có nghĩa là không có bất cứ pháp nào nằm yên một chỗ  mà không thay đổi ; ngay cả việc Nhứt Xiển Đề cũng có khả năng thành Phật. Đó là do các pháp bất định nầy.

 

Đón tôi tại phi trường Melbourne thưở ấy không phải là một Cư Sĩ, mà chính Ngài, một Lão Tăng lái một chiếc xe, chắc cũng đã chạy nhiều cây số lắm, để đón một trung niên tu sĩ đến từ phương xa bên Tây Đức ghé thăm. Tôi vui kể cho Ngài nghe trong khi Ngài vẫn lái bên tay trái, tôi thầm thán phục Ngài, vì mình ở ngoại quốc từ năm 1972 đến bây giờ mà chỉ lái có hai lần rồi bỏ hẳn, còn Ngài, tuổi lớn như vậy mà vẫn cầm vô lăng để lái một chiếc xe đã qua nhiều đời xử dụng, qủa là một sự tài tình. Vì Ngài đã hội nhập vào xã hội Úc nhanh như vậy. Ở Úc cũng như ở Hoa Kỳ, nếu không biết lái xe là một sự thiệt thòi rất lớn, vì đi đâu cũng phải cần đến xe hơi. Cho nên nhiều người hỏi tôi rằng: tại sao Thầy đi Mỹ và Úc nhiều lần, mà chẳng thấy Thầy trụ lại hai nơi nầy? tôi trả lời rằng: vì tôi ngại lái xe lắm, do vậy mới chọn Âu Châu để định trú, vì lẽ Âu Châu không rộng lớn như Úc Châu hay Mỹ Châu. Đây có thể là câu trả lời ngắn gọn thôi; nhưng bên sau còn nhiều lý do khác nữa.

 

Tôi được hân hạnh ấy và ơn ấy chẳng bao giờ quên, nên năm 1995 khi có Đại Hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại họp tại chùa Viên Giác Hannover thì tôi cung thỉnh Ngài sang đây thăm cho biết Âu Châu  một chuyến và Ngài dạy rằng: Nước Đức cái gì cũng nhỏ, không như nước Úc. Máy bay cũng nhỏ, khi di chuyển phải tay xách nách mang đi bộ ra sân bay,phi trường cũng nhỏ, xe hơi cũng nhỏ, mà họ nói ngôn ngữ gì nó xa lạ với tiếng Anh tại Úc… Đại Hội năm đó cũng là  cơ hội để Qúy Ngài gặp nhau một lần như thế, cũng là điều  hoan hỷ lắm rồi. Từ đó về sau nầy Ngài ít đi xa, nếu có thì Canada, có đôi lần Ngài  đã đặt chân đến.

 

Ngôi chùa của Ngài đang Trụ Trì là chùa Bảo Vương. Bảo hiệu nầy dùng để chỉ cho ngôi vị của Phật như trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm mà Ngài A Nan đã phát nguyện trước Đức Phật. Nay nhân dịp làm lễ tri ân nầy, Con xin nguyện cầu Tam Bảo gia hộ cho Đại Lão Hòa Thượng luôn trường thọ đến tuổi 100 để cho tứ chúng được nhờ và biết đâu, Ngài lại có cơ duyên để Âu du hay Mỹ du một lần nữa.

 

Khoa Du Già Chẩn Tế Cô Hồn, Ngài đã dịch hẳn sang Việt ngữ. Hy vọng những vị nào chuyên về nghi lễ thì cũng có thể học hỏi được nhiều việc lợi ích qua nghi quy nầy. Chính Ngài cũng đã nhiều lần ngồi  đàn chẩn tế ở ngôi vị Gia Trì tại Tu Viện Quảng Đức. Những quyết ấn của Ngài rất điêu luyện, chắc chắc sau những lễ nghi như thế âm dương đều được lợi lạc. Nhiều lần tôi đã nghe Ngài ban Đạo Từ trong các Đại Lễ rất hay, trôi chảy; nhưng nhiều khi cũng thót tim và ngay cả người dịch sang Anh văn, không biết phải dịch như thế nào mới là đúng nghiã, mặc dầu tất cả những gì Ngài ban đều là sự thật cả, nhất là sự thật của lịch sử thì người ta không thể chối cải quanh co đâu được.

Vài dòng thô thiển của một người gốc là  nông dân của xứ Quảng, viết một bài ngắn xin dâng lên Ngài với lòng thành kính tri ân Ngài đã có những đóng góp thiết thực cho PGVN tại Úc Châu. Kính nguyện Ngài luôn được vạn an.

Viết xong bài nầy vào một sáng chớm  Xuân (15.2.2016) tại Tu Viện Viên Đức Ravensburg, Đức Quốc.

Thích Như Điển

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 28627)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
09/04/2013(Xem: 7330)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 5147)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 6110)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 12714)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 6312)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 7461)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 9755)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 4858)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7004)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567